SỐNG ĐỨC TIN
Radio 1480 AM - Sống Đức Tin - Phát Thanh Hằng Tuần Từ 8-9 giờ Tối Mỗi Thứ Năm
230921 Radio 230914 Radio 230907 Radio
230831 Radio 230824 Radio 230817 Radio 230810 Radio 230803 Radio 230727 Radio 230720.2 Radio 230720.1 Radio 230713 Radio 230706 Radio
(HT 1-10-2023)
Chầu Thánh Thể - Cửa Hướng Đến Thiên Đàng
Giáo lý về sự Hiện Diện Đích Thực có nghĩa là Chúa Giê-su hiện diện ngày hôm nay trong nhiệm tích Thánh Thể cũng không kém chi việc Người có mặt ở nhà của hai chị em Mat-ta và Ma-ri-a. Người ta có thể nói, “Chúng ta có Thánh Thể trên trần gian: Đức Giê-su lịch sử đã sống như xưa; còn Đức Ki-tô phục sinh đang ngự trên thiên đàng.” Tuy nhiên, chúng ta đã nói rồi, trong Chúa Giê-su Thánh Thể, trời và đất đã giao duyên thành một hoàn toàn. Trong Chúa Giê-su, lễ thành hôn đã bắt đầu. Người là Thiên Chúa, Đức Chúa của trời cao, đã trở nên hữu hình và chúng ta có thể sờ chạm Người: ai thấy Người là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Con mắt xác thịt chúng ta thấy tấm bánh và chén rượu, nhưng bên dưới hình bánh và hình rượu đó, với con mắt đức tin, là chính Chúa Giê-su mà thân xác phục sinh của Người đang ngự trên thiên đàng. Đoàn các thiên thần và các thánh hân hoan nhảy mừng, thờ lạy Chúa. Một số trẻ em dưới thế quỳ gối và ngồi tại cánh cổng hướng đến thiên đàng, chúng nhìn lên vòng tròn ánh sáng là trung tâm của thiên đàng một cách đầy khát mong, và trong khi chúng ở đó, toàn trái đất như cây cỏ nở hoa: trong sự hiện diện của Người, tất cả đều bình an, tất cả đều là ánh sáng.
Thánh Thể là sự hiện diện đích thực và liên tục của Chúa Giê-su, không chỉ là một thời khắc hiệp thông, nhưng là một sự hiện hữu, một sự cư ngụ liên tục, một thực tại vĩnh cửu của Nhập Thể, Người hiện diện “trong mọi Nhà Tạm trên trần gian cho đến tận thế.” Trong thời đại chúng ta, chầu Thánh Thể đã trở thành một cách thế phổ biến mãi mãi để chúng ta ở trong sự hiện diện của Chúa Giê-su, để chúng ta tôn thờ Người: đó là một cách thế để ở trong thiên đàng đang khi chúng ta vẫn còn trên dương thế.
Sự bình an, trầm lắng và hân hoan tuyệt vời nhất sẽ đến cho những ai ở lại trước sự hiện diện của “chàng rể của linh hồn chúng ta”. Không ai, và chắc chắn rằng không gì khác trên dương gian làm thỏa mãn trọn vẹn nỗi khát vọng sâu thẳm nhất của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy một chút nào đó về Thiên Chúa nơi các loài thọ tạo, nơi mọi thứ đẹp tươi – và nơi mọi người Chúa đã dựng nên. Còn nơi nhiệm tích Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy Người. Không như thấy Người khi chúng ta rời bỏ trần gian, không như Người muốn chúng ta biết về Người trong cõi trường sinh, nhưng trong dạng thức Người đã chọn lựa để đến với chúng ta trên hành trình dương thế của nhân loại. Ngày nào đó, khi sự tối tăm hiện tại này chấm dứt và Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong mọi sự”, bấy giờ chúng ta sẽ nhìn thấy dung nhan yêu dấu của Đấng đã tác tạo chúng ta bởi yêu thương, đã cứu chuộc và hiến dâng chính mình Người cho chúng ta trong cái chết ô nhục nhất, Người sẽ ôm lấy chúng ta.
Giờ đây, chúng ta đăm đăm nhìn lên Chúa Giê-su. Người như thần lương của chúng ta được bao quanh bởi ánh sáng. Thánh Thể mà chúng ta tôn thờ là cửa sổ hướng đến thiên đàng, hướng đến Thân Mình đích thực của Chúa chúng ta. Chính Người, chứ không phải ai khác đang ở đây. Chúng ta hãy đến thờ lạy Người.
Lm. Giuse Phạm Đình Ái SSS chuyển ngữ (tiếp theo và hết)
2 Tháng Mười - CÁC THIÊN THẦN HỘ THỦ (Mt 18,1-5.10)
Nếu sức mạnh của sự dữ và ma quỉ đông hàng hà sa số, đang ngày đêm bay lượn quanh nhân loại, xung quanh chúng ta để tìm cơ hội làm hại con người thì sung sướng và hạnh phúc, vững dạ thay khi Chúa gửi đến cho loài người một sức mạnh vô cùng hữu hiệu là các Thiên Thần. Sự trợ giúp này, Chúa và Giáo Hội gọi là các Thiên Thần Hộ Thủ hay Bản Mệnh. Các Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ con người khỏi hiểm nguy, khỏi mọi sự dữ quấy phá, đưa con người tránh xa dịp tội để con người kết hợp và tiến bước tới Chúa.
THIÊN THẦN BẢN MỆNH LÀ AI?
Thiên Chúa thiết lập vũ trụ, tạo dựng con người. Sách khải nguyên ngay từ những trang đầu đã thuật lại việc Thiên chúa tạo dựng Trời Đất, tạo nên Con người. Trong vũ trụ hỗn mang đan xen bóng tối và sự sáng. Lực của bóng tối, của ma quỉ mạnh mẽ vô cùng. Ma quỉ có số đông vô số kể lúc nào cũng lượn quanh con người, rình mò cắn xé. Ngay trang đầu khởi nguyên, Kinh Thánh đã viết: "thần khí Chúa bay lượn là là trên mặt nước" và trong Tân Ước, trong đêm Giáng Sinh, Thiên Thần của Chúa với muôn cơ binh đàn ca, vinh tụng xướng hát, tôn vinh con Thiên Chúa là Đức Giêsu xuống thế làm người. Đây là các Thiên thần luôn túc trực để thờ phượng Chúa và nâng đỡ con người. Trong số này, có muôn vàn Thiên Thần Bản Mệnh, Chúa sai tới để nâng đỡ, gìn giữ từng người. Các ngài giúp con người tránh xa các dịp tội, thêm sức mạnh cho con người để con người thoát những cơn cám dỗ nguy hiểm, nâng đỡ và khuyến khích con người khi con người gặp những sự thất vọng ở trần gian, an ủi con người trong những cơn sầu muộn. Các Thiên Thần Bản Mệnh cũng giúp con người hồi tâm thống hối khi con người yếu đuối, sa ngã, cầu bầu cùng Chúa cho con người. Các Thiên thần Bản Mệnh cũng soi sáng, thêm sức mạnh cho con người khi con người đang hấp hối, nguy tử vv
Các Thiên thần Bản Mệnh có sứ mạng lớn lao là luôn hiện diện bên cạnh con người để giữ gìn, an ủi và che chở con người. Nên, Thánh vịnh 137,1 đã viết: " Lạy Chúa giữa chư vị Thiên Thần, Con đàn ca kính Chúa " hoặc trong lời nguyện nhập lễ ngày 2/10, Giáo Hội đã cất tiếng nguyện xin: "
Chúa sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang".
7 tháng 10 - Ðức Mẹ Mân Côi
"Lần hạt Mân côi từ bao năm tháng đã là tỏ lòng kính mến Ðức Mẹ. Thực hành này đã có một chiều sâu mới trong thời chúng ta. Ngày 7 tháng 10 năm 1571, một thuyền đoàn Kitô Giáo gồm 206 chiếc thuyền với 80 ngàn người do thánh Giáo Hoàng Piô thứ V tổ chức, và do Don John của Áo Quốc lãnh đạo đã quyết thắng thuyền đoàn của Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo với 320 chiến thuyền và 120 ngàn binh sĩ và người chèo tù nhân Kitô giáo của Thổ Nhĩ Kỳ trong vịnh biển Hy Lạp. Một lần nữa, đoàn quân Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo không chế ngự được đoàn quân Kitô giáo Âu châu. Trong trận hải chiến này, nhóm Mân Côi Rôma đã lần chuỗi Mân Côi để cầu thắng cho Hải đội Kitô Giáo trong nhà thờ Ðức Bà. Khi tin đoàn thắng được loan ra, ai ai cũng nhìn nhận đó là sự bầu cử của Ðức Mẹ. Ðức Giáo Hoàng Piô thứ V thuộc dòng Ðaminh rất sùng kính Kinh Mân côi đã lập ra lễ Ðức Bà Toàn Thắng để đánh dấu sự chiến thắng nói trên. Về sau lễ này được đổi ra là lễ Ðức Mẹ Mân Côi mà Giáo hội vẫn giữ vào ngày 7/10 mỗi năm. Khi người ta lần hat ở các đám tang đêm trước ngày chôn cất, người chủ sự thường nhân cơ hội dể đọc hết 150 kinh Mân côi, các Sự Vui, Sự Thương, và Sự Mừng, với kinh mở đầu cho lễ Ðức Mẹ Mân Côi. Ðó là tóm tắt đầy đủ nhất của cuộc đời Mẹ Maria và Chúa Giêsu Con Mẹ. Mặc dù Ðức Mẹ trao chuỗi Mân Côi cho thánh Dômincô không được coi có tính cách lịch sử, nhưng sự phát triển của kinh nguyện này là nợ lớn đối với những đệ tử của thánh Ðôminicô.
Lạy Chúa xin đổ tràn tim chúng con với tình thương của Chúa. Chúa đã sai thiên thần báo cho chúng con, Con Chúa giáng trần làm người. Xin hãy đưa chúng con đến sự vinh quanh phục sinh nhờ cuộc khổn nạn và cái chết của con Chúa. Amen.
(HT 24-9-2023)
Chầu Thánh Thể - Cửa Hướng Đến Thiên Đàng
Trước Mặt Nhật được đặt trên bàn thờ, đơn giản là chúng ta chỉ ngồi và nhìn chăm chú vào Mình Thánh được bao quang bằng ánh sáng. Đó là chính Thân Mình Chúa Ki-tô, là Bánh đã được truyền phép. Vô số những người công giáo trên khắp thế giới cũng đăm đăm nhìn lên như thế trong những giờ chầu Thánh Thể.
Tại sao chỉ là ngồi và chiêm ngắm Thánh Thể? Vâng, dường như không có hành động nào ở đây: hành động ở đây chỉ là hiện diện, là chính sự hiện diện của Thiên Chúa. Câu chuyện xảy ra ở Bê-ta-ni-a cho thấy, chị Mác-ta lo lắng bận bịu với công việc nhằm đáp ứng những nhu cầu của thế gian. Nhưng ở đây, trước Chúa Giê-su Thánh Thể trong dạng thức bí tích, giống như người em Ma-ri-a, chúng ta tìm thấy nơi chỗ cho mình, đó là ngồi bên chân Đấng Mến Yêu.
Chúa Giê-su Ki-tô đang hiện diện ở đây với mình, máu, linh hồn và thiên tính của Người. Nếu ai đó nghi ngờ về những gì xảy ra đối với tấm bánh trong Thánh Lễ, họ cần được nhắc lại giáo huấn của Hội Thánh về bánh sau khi được truyền phép đã biến thể trở thành Chúa Giê-su. Người cũng chính là Thiên Chúa. Nếu đọc Tin Mừng theo thánh Gio-an chương VI với tâm trí của Hội Thánh, rõ ràng là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã kéo dài sự nhập thể của Người trên trần gian bằng việc thiết lập bí tích Thánh Thể, nhờ đó trong mỗi Thánh Lễ, bánh và rượu được biến đổi thành chính bản thân Người vì chúng ta. Những lời cốt lõi, phản ánh một cách sinh động và không còn úp mở nữa trong phụng tự Công giáo chúng ta là: “Này là Mình Thầy….Này là Máu Thầy.” Giây phút linh mục đọc những Lời truyền phép đó, trời đất đã giao duyên gặp gỡ trong bánh và rượu, Thiên Chúa trở thành thần lương cho chúng ta.
Các nhà thần bí suốt dòng lịch sử đã nghiệm thấy những hồng ân vĩ đại nơi sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Nhiệm Tích Thánh Thể. Dân chúng cũng thế, nhờ đức tin, cặp mắt trái tim của họ đã mở ra. Có người nghĩ rằng chỉ trong các tu viện hay đan viện, may ra chúng ta mới thoát khỏi những áp lực của thế gian và có thể gần gũi được với Thiên Chúa. Thực ra, Chúa Ki-tô vẫn ở ngay bên chúng ta trong Thánh Lễ, trong Nhà Tạm Thánh Thể ở nhà thờ và chúng ta không cần phải tìm kiếm Người ở nơi đâu khác. Thực sự không có nơi nào trên trái đất này thánh thiêng hơn là Nhà Tạm. Mỗi một Thánh Lễ, sự truyền phép đều là một phép lạ, vượt xa hơn bất kỳ một phép lạ nào khác, hơn cả sự tạo thành vũ trụ. Bởi đó, người công giáo chúng ta luôn luôn bày tỏ sự cung kính một cách đặc biệt mỗi khi vào nhà thờ. Chúng ta bái gối hay cúi sâu trước sự hiện diện đích thực và chân thực của Đức Vua – Đấng nắm trọn chủ quyền đang ở đó trong Nhà Tạm. Chúng ta tôn thờ, quỳ gối vì Thiên Chúa đang hiện diện nơi đó. Chúng ta giữ thing lặng trước sự hiện diện của Người để lắng nghe điều Người nói.
Thực tại của chúng ta nơi trần gian này sẽ qua đi. Bây giờ chúng ta mang hình dạng con người, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều đó tùy thuộc vào Thiên Chúa: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ.” (1Ga 3,2). Dường như chúng ta chỉ là một ảo ảnh của kiếp sống và thân xác như cỏ cây của chúng ta sẽ được biến đổi khi rơi vào lòng thương xót không thể hiểu nổi của Thiên Chúa. Lúc này đây, Người đến với chúng ta như của nuôi dưỡng, như thần lương sự sống. Khi được thay đổi, chúng ta sẽ thấy khuôn mặt của Đấng đã chọn lựa ở giữa chúng ta như một người tôi tớ phục vụ và Người phục vụ chúng ta bằng cách hiến trao thịt Người làm của ăn, máu Người làm của uống.
Lm. Giuse Phạm Đình Ái SSS chuyển ngữ (kỳ II và hết)
29 Tháng Chín - Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Gabriel và Raphael
Các Thiên Thần là những thiên sứ của Chúa xuất hiện nhiều trong Thánh Kinh, nhưng chỉ có thiên thần Micae, Gabriel và Raphael được nhắc đến tên mà thôi.
Thiên thần Micae xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Danien như là "đại hoàng tử" để bảo vệ dân Israel khỏi những kẻ thù tấn công. Trong sách Khải Huyền, Thiên thần Micae dẫn đoàn quân của Chúa đến chiến thắng sau cùng trên quyền lực của ma quỷ. Lòng sùng kính thiên thần Micae đã có từ cổ xưa nhất, thịnh hành ở phương Ðông vào thế kỷ thứ 4. Giáo hội phương Tây bắt đầu lễ kính quan thầy thiên thần Micae và các thiên thần vào thế kỷ thứ 5.
Thiên thần Gabriel cũng xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Danien, để công bố xứ mệnh của thiên thần Micae trong chương trình của Thiên Chúa. Sự xuất hiện nổi bật nhất của Thiên thần Gabriel là cuộc diện đàn với thiếu nữ Dothái tên là Maria (tức Ðức Mẹ Maria), Người vâng phục cưu mang Chúa Cứu Thế.
Những hoạt động của Thiên thần Raphael được thu gọn trong Cựu Ước của sách Tôbít. Thiên thần Raphael hiện ra để hướng dẫn con trai của Tôbít là Tôbia qua những đoạn trường mạo hiểm ly kỳ đưa đến kết thúc ba niềm vui, đó là: Tobia thành hôn với Sara, Tobia được chữa khỏi bệnh mù, và phục hồi gia sản của gia đình.
Lễ kính nhớ thiên thần Gabriel là ngày 24 tháng 3, thiên thần Raphael ngày 24 tháng 10 đã được ghi vào lịch Rôma vào năm 1921. Năm 1970, lịch được sửa đổi nhập chung hai ngày lễ kính này với ngày lễ kính thiên thần Micae.
(HT 17-9-2023)
Chầu Thánh Thể - Cửa Hướng Đến Thiên Đàng
Trước Mặt Nhật được đặt trên bàn thờ, đơn giản là chúng ta chỉ ngồi và nhìn chăm chú vào Mình Thánh được bao quang bằng ánh sáng. Đó là chính Thân Mình Chúa Ki-tô, là Bánh đã được truyền phép. Vô số những người công giáo trên khắp thế giới cũng đăm đăm nhìn lên như thế trong những giờ chầu Thánh Thể.
Tại sao chỉ là ngồi và chiêm ngắm Thánh Thể? Vâng, dường như không có hành động nào ở đây: hành động ở đây chỉ là hiện diện, là chính sự hiện diện của Thiên Chúa. Câu chuyện xảy ra ở Bê-ta-ni-a cho thấy, chị Mác-ta lo lắng bận bịu với công việc nhằm đáp ứng những nhu cầu của thế gian. Nhưng ở đây, trước Chúa Giê-su Thánh Thể trong dạng thức bí tích, giống như người em Ma-ri-a, chúng ta tìm thấy nơi chỗ cho mình, đó là ngồi bên chân Đấng Mến Yêu.
Chúa Giê-su Ki-tô đang hiện diện ở đây với mình, máu, linh hồn và thiên tính của Người. Nếu ai đó nghi ngờ về những gì xảy ra đối với tấm bánh trong Thánh Lễ, họ cần được nhắc lại giáo huấn của Hội Thánh về bánh sau khi được truyền phép đã biến thể trở thành Chúa Giê-su. Người cũng chính là Thiên Chúa. Nếu đọc Tin Mừng theo thánh Gio-an chương VI với tâm trí của Hội Thánh, rõ ràng là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã kéo dài sự nhập thể của Người trên trần gian bằng việc thiết lập bí tích Thánh Thể, nhờ đó trong mỗi Thánh Lễ, bánh và rượu được biến đổi thành chính bản thân Người vì chúng ta. Những lời cốt lõi, phản ánh một cách sinh động và không còn úp mở nữa trong phụng tự Công giáo chúng ta là: “Này là Mình Thầy….Này là Máu Thầy.” Giây phút linh mục đọc những Lời truyền phép đó, trời đất đã giao duyên gặp gỡ trong bánh và rượu, Thiên Chúa trở thành thần lương cho chúng ta.
Các nhà thần bí suốt dòng lịch sử đã nghiệm thấy những hồng ân vĩ đại nơi sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Nhiệm Tích Thánh Thể. Dân chúng cũng thế, nhờ đức tin, cặp mắt trái tim của họ đã mở ra. Có người nghĩ rằng chỉ trong các tu viện hay đan viện, may ra chúng ta mới thoát khỏi những áp lực của thế gian và có thể gần gũi được với Thiên Chúa. Thực ra, Chúa Ki-tô vẫn ở ngay bên chúng ta trong Thánh Lễ, trong Nhà Tạm Thánh Thể ở nhà thờ và chúng ta không cần phải tìm kiếm Người ở nơi đâu khác. Thực sự không có nơi nào trên trái đất này thánh thiêng hơn là Nhà Tạm. Mỗi một Thánh Lễ, sự truyền phép đều là một phép lạ, vượt xa hơn bất kỳ một phép lạ nào khác, hơn cả sự tạo thành vũ trụ. Bởi đó, người công giáo chúng ta luôn luôn bày tỏ sự cung kính một cách đặc biệt mỗi khi vào nhà thờ. Chúng ta bái gối hay cúi sâu trước sự hiện diện đích thực và chân thực của Đức Vua – Đấng nắm trọn chủ quyền đang ở đó trong Nhà Tạm. Chúng ta tôn thờ, quỳ gối vì Thiên Chúa đang hiện diện nơi đó. Chúng ta giữ thing lặng trước sự hiện diện của Người để lắng nghe điều Người nói.
Thực tại của chúng ta nơi trần gian này sẽ qua đi. Bây giờ chúng ta mang hình dạng con người, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều đó tùy thuộc vào Thiên Chúa: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ.” (1Ga 3,2). Dường như chúng ta chỉ là một ảo ảnh của kiếp sống và thân xác như cỏ cây của chúng ta sẽ được biến đổi khi rơi vào lòng thương xót không thể hiểu nổi của Thiên Chúa. Lúc này đây, Người đến với chúng ta như của nuôi dưỡng, như thần lương sự sống. Khi được thay đổi, chúng ta sẽ thấy khuôn mặt của Đấng đã chọn lựa ở giữa chúng ta như một người tôi tớ phục vụ và Người phục vụ chúng ta bằng cách hiến trao thịt Người làm của ăn, máu Người làm của uống.
Lm. Giuse Phạm Đình Ái SSS chuyển ngữ (kỳ I)
20 Tháng Chín - Thánh Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang và Các Bạn
Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng. Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.
Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế. Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người tín hữu Kitô Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.
Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để phong thánh, ngoài Thánh Anrê và Phaolô, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.
Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Phêrô Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.
(HT 10-9-2023)
TẶNG PHẨM HY TẾ CỦA ĐỨC KITÔ
Thánh Eymard đã nói về Thánh Thể bằng một ngôn ngữ rất cảm động, đó là Bí tích mà cái chết cứu độ của Chúa Giêsu vươn chạm đến và ảnh hưởng đến cuộc sống chúng ta. Điều này, chúng ta có thể biết được qua việc trích dẫn vài hàng tư tưởng của ngài: "Hy tế Thánh Lễ chính là biểu tượng cho hy tế thập giá... Chúa Giêsu đã khám phá ra những phương thế để tự hiến mình làm của lễ trong một cách thức thường xuyên, thậm chí trong tình trạng vinh quang của Ngài." "Thánh Lễ ...là hành vi tôn vinh cao cả nhất có thể được dâng lên Thiên Chúa, là hành vi thánh thiện và lợi ích nhất cho chúng ta." "Thánh Thể làm đại diện, gợi nhớ lại cái chết của Chúa chúng ta xét như là hành động tối cao và cuối cùng của tình yêu thương. ...Bí tích Thánh Thể không có gì khác hơn là tình yêu bùng phát ra từ phòng Tiệc Ly." Sự trân quý sâu sắc của thánh Eymard đối với Thánh Lễ luôn luôn như vậy trong suốt cuộc sống của cha, và dấu hiệu đầu tiên của sự trân quý đó được thể hiện rõ nét ngay trong thời thơ ấu của ngài. Cậu Phêrô Giuliano Eymard phải chờ đợi cho đến khi mười hai tuổi mới có thể được Rước Lễ Lần Đầu (điều này khá nghiêm ngặt vào thời đó). Nhưng trước đó vài năm, không gì có thể ngăn cản cậu phục vụ Thánh Lễ, và chúng ta biết rằng, cậu đã làm như vậy một cách chăm chỉ thường xuyên với tâm tình vui tươi, sự chu đáo và lòng đạo đức tuyệt vời.
Có nhiều điều để suy ngẫm, với lời ngợi khen và lòng biết ơn, về sự kiện cử hành Hy Lễ Tạ Ơn làm cho cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu vươn đến và mở rộng đến thời gian cũng như không gian của riêng mỗi người chúng ta. Thông qua Thánh Lễ, chúng ta đang được liên tục tái kết nối với Chúa Giêsu, nối kết giữa lễ vật hy sinh của con người và Thiên Chúa phục sinh. Thông qua tặng phẩm Thánh Thể - vừa trong cử hành phụng vụ và vừa trong Bí tích được lưu giữ nơi Nhà Tạm - chúng ta đều có thể sống liên tục trước sự hiện diện của Thiên Chúa Cha qua sự hiện diện của Chúa Con và trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Một món quà như vậy - thử xem liệu chúng ta có thể nói được điều gì đó cách đặc biệt và trọn vẹn ý nghĩa về Bí tích Cực Thánh không - cuối cùng, thực sự ngôn từ không sao diễn tả được.
Lm. Bernard Camiré, SSS (kỳ II và hết. Nguồn: dongthanhthe.net)
14 Tháng 9 - Sự Chiến Thắng của Thánh Giá
14 Tháng 9 - Sự Chiến Thắng của Thánh Giá
Vào đầu thế kỷ thứ tư, Thánh Helena, mẹ của Hoàng Ðế La Mã Constantine, đến Giêrusalem để tìm kiếm các nơi linh thiêng mà Ðức Kitô đã từng đặt chân đến. Thánh nữ san bằng Ðền Aphrodite (thần Hy Lạp) mà truyền thống cho rằng được xây trên phần mộ của Ðấng Cứu Thế, và sau đó Constantine đã xây Ðền Mộ Thánh lên trên. Trong cuộc đào xới, các công nhân tìm thấy ba thập giá. Truyền thuyết nói rằng một thập giá được coi là của Ðức Giêsu khi thập giá ấy chữa lành một phụ nữ đang hấp hối khi thập giá chạm vào bà.
Ngay sau đó, thập giá ấy trở nên mục tiêu cho sự sùng kính. Vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh ở Giêrusalem, theo lời một nhân chứng, thập giá được lấy ra khỏi hộp đựng bằng bạc, và được đặt trên bàn cùng với tấm bảng nhỏ có ghi hàng chữ mà Philatô đã ra lệnh treo trên đầu Ðức Giêsu. Sau đó "từng người một đến kính viếng; tất cả đều cúi đầu; trước hết họ dùng trán sau đó dùng mắt để chạm đến thập giá và tấm bảng; và sau khi hôn kính thập giá họ mới lui bước."
Cho đến ngày nay, các Giáo Hội Ðông Phương, Công Giáo cũng như Chính Thống Giáo đều cử hành ngày Tôn Kính Thánh Giá vào tháng Chín để kỷ niệm ngày cung hiến Ðền Mộ Thánh. Ngày lễ này được du nhập vào niên lịch Tây Phương trong thế kỷ thứ bảy sau khi Hoàng Ðế Heraclius khôi phục được thập giá này khỏi tay người Ba Tư mà họ đã chiếm đoạt vào năm 614, trước đó 15 năm. Theo một truyện kể, vị hoàng đế định tự mình vác thập giá ấy vào Giêrusalem, nhưng không thể nào tiến bước được cho đến khi ông cởi bỏ phẩm phục sang trọng vua chúa và trở nên một người nghèo hèn đi chân đất.
15 Tháng Chín - Ðức Mẹ Sầu Bi
Trong một thời kỳ có đến hai ngày lễ để tôn kính sự Sầu Bi của Ðức Mẹ: một ngày lễ xuất phát từ thế kỷ thứ 15, ngày lễ kia từ thế kỷ thứ 17. Trong một thời gian cả hai ngày lễ đều được Giáo Hội hoàn vũ cử hành: một lễ vào ngày thứ Sáu trước Chúa Nhật Lễ Lá, một lễ trong tháng Chín.
Những dữ kiện chính yếu trong phúc âm đề cập đến sự sầu muộn của Ðức Mẹ là trong các đoạn của Thánh Luca 2:35 và Gioan 19:26-27. Ðoạn phúc âm theo Thánh Luca là lời tiên đoán của cụ Simeon về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Ðức Maria; đoạn của Thánh Gioan nói về lời trăn trối của Ðức Kitô với Ðức Maria và người môn đệ yêu dấu.
Nhiều học giả thời Giáo Hội tiên khởi giải thích lưỡi gươm như sự sầu muộn của Ðức Maria, nhất là khi nhìn Ðức Giêsu chết trên thập giá. Do đó, hai đoạn này có liên hệ với nhau, như điều tiên đoán đã được thể hiện.
Ðặc biệt Thánh Ambrôsiô coi Ðức Maria như một hình ảnh sầu muộn nhưng đầy uy quyền ở chân thánh giá. Ðức Maria đứng đó một cách không sợ hãi, trong khi những người khác lẩn trốn. Ðức Maria nhìn đến các thương tích của Con mình với lòng thương cảm, nhưng qua đó ngài nhìn thấy sự cứu chuộc nhân loại. Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập giá, Ðức Maria không sợ bị chung số phận nhưng sẵn sàng nộp mình cho kẻ bách hại.
(HT 3-9-2023)
TẶNG PHẨM HY TẾ CỦA ĐỨC KITÔ
Nếu một người công giáo bình thường được hỏi: "Khi nghe nói đến hạn từ "Bí tích Thánh Thể", hình ảnh nào sẽ nổi lên trong tâm trí của bạn? ", chắc chắn, câu trả lời sẽ cho chúng ta thấy nhiều khía cạnh của Bí tích Thánh Thể. Ví dụ, hình ảnh có thể đến với tâm trí người ta là một linh mục đang hơi cúi mình xuống trên bánh hay chén tại bàn thờ mà đọc: "Này là Mình Thầy...sẽ bị nộp vì các con...Này là chén máu Thầy...sẽ đổ ra cho các con." Tiếp nữa, có lẽ là hình ảnh dân chúng xếp hàng lên hiệp lễ, họ đón nhận Mình Thánh với niềm xác tín qua lời đáp "Amen". Hay một bức tranh khác nữa là hình ảnh của những người đang cầu nguyện thinh lặng trước Hào Quang hoặc trước Nhà Tạm chứa đựng Mình Thánh Chúa. Tất nhiên, đây chỉ là một vài hình ảnh tiêu biểu trong rất nhiều hình ảnh về Bí tích Thánh Thể có thể đến với tâm trí người ta và chúng toát lên một số chân lý cũng như một số chiều kích của Nhiệm tích Thánh Thể. Thực tế, Hy Lễ Tạ Ơn là một Bí tích chứa đựng nhiều nét rạng ngời thiêng liêng. Trong những bài chia sẻ sau, chúng ta sẽ nỗ lực để khai mở một ít trong những nét huy hoàng rực rỡ đó.
Chúng ta sẽ bắt đầu với ví dụ đầu tiên ở trên mà hạn từ Bí tích Thánh Thể gợi lên cho tâm trí người ta: đó hình ảnh của vị tư tế lúc truyền phép, ngài đọc: "Này là Mình Thầy...sẽ bị nộp vì các con; Này là chén máu Thầy ...đổ ra cho các con." Chân lý của Bí tích Thánh Thể làm nền tảng cho khoảnh khắc truyền phép là gì? Tất cả chúng ta đều biết, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Bữa Tiệc này là một nghi lễ nhằm kỷ niệm một biến cố trọng tâm trong lịch sử của người Do Thái, tức biến cố giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Khi người Do Thái dùng bữa ăn nghi thức đó trong Lễ Vượt Qua, họ không chỉ nhớ lại một biến cố của quá khứ mà còn là một lời hứa tiên tri cho họ về một cuộc giải thoát chưa đến, một cuộc giải thoát sẽ còn sâu rộng hơn, phổ quát và triệt để hơn. Về sau, đây chính là bối cảnh mà Chúa Giêsu giới thiệu tặng phẩm Thánh Thể của Ngài. Trong diễn tiến của bữa ăn nghi thức, Chúa Giêsu cầm lấy bánh không men từ bàn và nói trên bánh: "Này là Mình Thầy...sẽ bị nộp vì các con ". Tiếp theo, Ngài nâng chén rượu lên và nói trên chén rằng: "Này là máu Thầy, máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho các con...Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy." Với những lời long trọng ấy, Chúa Giêsu mặc khải Ngài chính là Con Chiên Hy Tế xóa tội trần gian. Khi Chúa Giêsu nói về thân mình Ngài "bị nộp vì các con" và về máu huyết Ngài "đổ ra cho các con", Ngài đang tỏ cho thấy cái chết của Ngài trên thập giá là một biến cố cứu chuộc toàn thể nhân loại, một biến cố làm biến đổi và canh tân toàn diện lịch sử tâm linh của con người.
Sau này, việc gì sẽ xảy ra nếu những điều Chúa Giêsu đã truyền dạy thực hiện để tưởng nhớ đến Ngài được chúng ta làm lại, tức là, cử hành Hy Lễ Tạ Ơn? Điều sẽ "xảy ra" là cái chết trao ban sự sống và cứu độ của Đức Giêsu trên thập giá, nghĩa là, sự hiến thân hoàn hảo của Chúa Giêsu cho Chúa Cha vì chúng ta, sẽ đi vào thời khắc đặc biệt của chúng ta trong lịch sử cũng như liên hệ với cuộc sống của chúng ta ở đây và bây giờ. Hy tế đó của Chúa Giêsu được trao ban cho chúng ta, một cách Bí tích, nhằm giúp chúng ta có thể nhập cuộc vào sự dâng hiến bản thân của Chúa Giêsu, để rồi chúng ta có thể nên một với Ngài trong hành động yêu mến và chúc tụng Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Như Đức Thánh Cha Benedicto XVI nói trong thông điệp đầu tiên của ngài: "Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào trong hành động tự hiến của Chúa Giêsu ... chúng ta bước vào trong chính sự tự hiến năng động của Ngài." Nếu đây là những gì cử hành Thánh Thể hướng về, thì sẽ chẳng khó khăn gì mấy để hiểu lý do tại sao Thánh Lễ, xét như là phương thế, mà nhờ đó, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô vươn chạm đến cũng như ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta, phải có một vị trí trung tâm trong đời sống của người tín hữu công giáo.
Lm. Bernard Camiré, SSS (kỳ I. Nguồn: dongthanhthe.net)
8 Tháng Chín - Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria
8 Tháng Chín - Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria
Giáo Hội mừng kính ngày sinh nhật Ðức Maria từ thế kỷ thứ sáu. Ngày sinh nhật được chọn trong tháng Chín vì Giáo Hội Ðông Phương bắt đầu niên lịch phụng vụ từ tháng Chín. Ngày mùng tám là vì lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội là ngày 8 tháng Mười Hai (chín tháng trước).
Kinh Thánh không đề cập gì đến việc sinh hạ Ðức Maria. Tuy nhiên, bản văn mà người ta cho là phúc âm nguyên thủy của Thánh Giacôbê có đề cập đến sự kiện này. Bản văn này không có giá trị lịch sử, nhưng nó cho thấy quá trình sùng đạo của Kitô Hữu. Theo bản văn, bà Anna và ông Gioankim vì hiếm muộn nên cầu xin cho được một đứa con. Họ được hứa cho một người con mà trẻ này sẽ giúp hình thành kế hoạch cứu chuộc trần gian của Thiên Chúa. Câu truyện trên (cũng như nhiều câu truyện khác trong phúc âm) cho thấy sự hiện diện quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời Ðức Maria ngay từ đầu.
Thánh Augustine nối kết việc sinh hạ của Ðức Maria với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thánh nhân nói trái đất hãy vui mừng và bừng sáng vì việc sinh hạ Ðức Maria. "Ngài là bông hoa trong cánh đồng mà từ đó đã nẩy sinh hoa huệ quý nhất vùng châu thổ. Qua sự sinh hạ của ngài, bản chất mà chúng ta thừa hưởng từ cha mẹ đã thay đổi."
(Nguồn: nguoitinhuu.org)
(HT 27-8-2023)
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ LINH ĐẠO CỦA VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ
NGOÀI THÁNH LỄ
b. Một khi cảm biết tình yêu Chúa Thánh Thể và sự thật về Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ được chính Tình Yêu biến đổi thành khí cụ của tình yêu.
«Chúa Giêsu đã muốn ở lại với chúng ta trong Thánh Thể, bằng cách làm cho sự hiện diện của Chúa trong bữa ăn và trong hy tế, trở nên lời hứa đổi mới nhân loại bằng tình yêu của Chúa». Khi chiêm ngắm Thánh Thể, chúng ta có thể trở thành điều mình chiêm ngắm và học biết hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa và nhân loại.
Một khi cảm nhận tình Chúa sâu xa, thì yêu người không còn là bổn phận phải làm, mà là một ân huệ trong đời, thúc bách ta hân hoan thực thi và chối từ yêu thương là một mất mát lớn lao trong đời. Lòng mến Thánh Thể thôi thúc lòng mến tha nhân. Bánh Thánh Thể “chuyên chở tình yêu của Đức Kitô” thì khi đón nhận và chiêm ngắm Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên người chuyên chở tình yêu Đức Kitô đến cho mọi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta có thể cho ta kinh nghiệm đáng tin này: «Trong Thánh Thể, chúng ta có Chúa Giêsu dưới hình bánh, còn trong các khu nhà ổ chuột, chúng ta nhìn thấy và sờ được Đức Kitô nơi những thân xác nát tan và những trẻ thơ bị ruồng bỏ. Nếu bạn không nhận ra Chúa Giêsu nơi Thánh Thể thì bạn cũng không thể nhận ra Chúa Giêsu trong người nghèo». Việc tôn thờ Thánh Thể giúp ta biết tôn trọng sự hiện diện của Đức Kitô trong những kẻ nghèo đói, khổ đau, bị bỏ rơi… Họ như là “bí tích” sống động đầy sự hiện diện của Chúa.
Kết luận
Ước gì nhờ nỗ lực học tập, cử hành và sống linh đạo Thánh Thể, chúng ta được trang bị một hiểu biết giáo lý sâu xa về Bí tích Cực Thánh, thắp bừng lên trong lòng mỗi người niềm say mến Chúa Giêsu, quyết tâm nên giống Chúa, để Bí tích Thánh Thể thực sự trở thành “chóp đỉnh và trung tâm”, thành “dự án sống” của mỗi người, của từng gia đình và của cộng đoàn giáo xứ.
Đức Thánh Cha Phanxicô ân cần nhắc nhở chúng ta: «Một buổi cử hành có thể rất đẹp trên bình diện bề ngoài, nhưng nếu nó không đưa chúng ta tới chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu, thì nó có nguy cơ không đem lại sự dưỡng nuôi nào cho con tim và cuộc sống chúng ta. Trái lại, qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu muốn bước vào cuộc sống chúng ta, thấm nhuần nó với ơn thánh của Chúa, dẫn đưa ta tới cuộc sống bác ái, quảng đại, thứ tha và hòa giải… và như thế, trong mỗi cộng đoàn Kitô hữu có sự liên hệ giữa phụng vụ và đời sống».
Vì vậy, «điều quan trọng nhất trong đời là học biết cách để Chúa Giêsu chạm đến và biến đổi ta bằng tình yêu trìu mến của Chúa». Chúa đang chờ đợi chúng ta trong Bí tích tình yêu. Chúng ta hãy mau mắn và hân hoan tìm gặp Chúa.
Nhớ rằng, linh đạo Thánh Thể là một “cảm nếm” hơn là “suy nghĩ”, là dìm mình trong sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa để con tim được lôi cuốn, hơn là lý trí được thuyết phục bởi các chân lý đức tin được bàn luận. Ước gì, nhờ sự nhiệt thành và sốt sắng hơn trong cử hành và tôn thờ Thánh Thể, chúng ta sớm được Chúa Thánh Thần dẫn vào một kinh nghiệm sâu xa về Chúa, để cuộc đời chúng ta tràn đầy ý nghĩa và niềm vui đức tin như cha Henri M. Nouwen xác quyết: “Niềm vui không tự đến với chúng ta. Chúng ta phải chọn niềm vui và gìn giữ nó trong suốt cuộc đời. Đó là chọn lựa đặt nền tảng trên sự hiểu biết rằng chúng ta sống với Thiên Chúa, tìm thấy nơi Thiên Chúa chỗ trú ẩn, sự an toàn và không gì cất Thiên Chúa đi khỏi chúng ta, kể cả cái chết.” (kỳ V và hết, Nguồn: dongthanhthe.net)
27 Tháng Tám - Thánh Monica (322?-387)
27 Tháng Tám - Thánh Monica (322?-387)
Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào. Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng. Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo. Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.
Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh). Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình
Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện. Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè. Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.
Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica. Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.
Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, "Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả. Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất." Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.
Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.
(Nguồn: nguoitinhuu.org)
(HT 20-8-2023)
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ LINH ĐẠO CỦA VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ
NGOÀI THÁNH LỄ
NGOÀI THÁNH LỄ
2. Hãy đến với Thánh Thể để cảm nếm Tình Yêu của Chúa.
Mọi điều chúng ta có đều là ơn ban của Chúa. Sự sống, tài năng, của cải, “tất cả là hồng ân”. Trong cái nhìn của đức tin, chúng ta có thể khám phá Chúa đang hiện diện rất gần, rất sâu trong chúng ta, vì Ngài là chính sự sống của ta.
Ơn tự nhiên đã diệu kỳ, mà ơn siêu nhiên còn cao quý gấp bội. Để phục hồi sự sống siêu nhiên đã mất vì tội, Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta chính Con của Ngài là Đức Kitô, Đấng đã tự hiến mình đến chết trên Thập giá để ta được giải thoát, được cứu độ, được sống đời đời.
Thánh Thể tiếp tục là tình yêu tự hiến này vì «Trong Thánh Thể, chúng ta có Chúa Giêsu, chúng ta có hy tế cứu độ của Chúa, chúng ta có sự sống lại của Chúa, chúng ta có ân ban của Chúa Thánh Thần, chúng ta có sự tôn thờ, vâng phục và tình yêu đối với Chúa Cha».
«Tôn thờ Thánh Thể là lúc chúng ta ở lại bên Chúa để học biết sự thật về Chúa là Đấng… đã trở nên nghèo khó, để ta nên giàu có ơn sủng, đã tự hiến chính mình, để ta được sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người mặc lấy thân phận mỏng manh thấp hèn của tấm bánh, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, không còn sống cho chính mình nữa. Tất cả hiện hữu của Chúa Giêsu là trọn vẹn hiến dâng, là sống vì ta và để cứu rỗi ta, cho ta được bước vào cảnh vực thần thiêng, được “ở cùng Chúa” và “Chúa ở cùng ta”. Đức Kitô là Đấng duy nhất, đứng trên đỉnh viên mãn của thời gian, đã mặc lấy thân phận thời gian của con người, để dẫn đưa con người vào trong chính Chúa, là “Hiện Tại Vĩnh Hằng”».
Nếu chúng ta mở rộng đôi mắt đức tin chiêm ngắm, mở rộng con tim để nhận biết tình yêu cứu độ của Chúa dành cho ta, đưa ta từ một tội nhân vào huyền nhiệm tình yêu vĩnh cửu của Chúa, thì giây phút trước Thánh Thể, lòng chúng ta phải sửng sốt yêu mến thốt lên như Phaolô: Con Thiên Chúa «… đã yêu tôi và hiến mạng vì tôi»(Gl 2,20).
3. Đến với Thánh Thể để hiệp nhất với Chúa và hiệp thông với tha nhân.
Các lần gặp gỡ thân tình với Đấng mà chúng ta xưng tụng là Chúa, là Đấng Cứu Độ, phải mang lại cho đời sống chúng ta «chân trời mới và hướng đi mới mang tính quyết định». Như thế, «Tôn thờ Thánh Thể mở cho ta cơ hội để sống “nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa”, để ra khỏi chính mình và trải rộng thân mình đến mức vô biên vô tận là được hiệp nhất với Thiên Chúa, Đấng Vĩnh Cửu».
a. Một khi cảm biết tình yêu Chúa Thánh Thể và sự thật về Chúa, chúng ta phải được thúc đẩy cách mãnh liệt để «giao nộp đời mình cho Chúa Giêsu để sống thiết thân với Chúa», để Chúa làm chủ và uốn nắn đời ta theo tình yêu Thánh Thể của Chúa. Một tình yêu có khả năng làm cho cuộc đời chúng ta vươn đến một sự “hiện hữu” chân thực, thánh thiện, vĩnh cửu, tràn đầy niềm vui và hy vọng.
Giữa dòng đời, trong đó, người ta chạy theo sự khôn ngoan nhân loại để khẳng định mình đẹp, mình giàu và quyền lực hơn người, phải rất quả cảm ta mới dám đặt tất cả hy vọng và ý nghĩa tối hậu đời mình nơi mình Chúa, sống theo thánh ý Chúa, thực hành những giá trị Tin Mừng. Họa theo nếp sống của Chúa Giêsu: giản dị và nghèo khó, khiêm tốn và hiền hậu, bao dung và phục vụ, ra khỏi chính mình để sống cho tha nhân là đi theo lẽ khôn ngoan của thập giá, là đường dẫn ta đi vào tương quan với Chúa ngày mật thiết hơn. Nhờ việc cử hành và tôn thờ Thánh Thể, chúng ta tìm thấy căn nguyên, mẫu mực và niềm hy vọng cho đời sống Kitô hữu của mình.
(kỳ IV, Nguồn: dongthanhthe.net)
23 Tháng Tám - Thánh Rôsa ở Lima (1586-1617)
Vị thánh đầu tiên của Tân Thế Giới này có cùng một đặc tính như tất cả các thánh khác -- đó là bị đau khổ vì sự chống đối -- và một đặc tính khác được khâm phục hơn là nên bắt chước -- đó là sự hãm mình đền tội cách quá đáng.
Thánh nữ sinh trong một gia đình Tây Ban Nha ở Lima, Peru, vào lúc Nam Mỹ đang trong thế kỷ truyền giáo đầu tiên. Dường như ngài muốn noi gương Thánh Catarina ở Siena, bất kể những chống đối và nhạo cười của cha mẹ, bạn hữu.
Vì lòng yêu mến Thiên Chúa mà các thánh có những hành động kỳ dị đối với chúng ta, và quả thật đôi khi thiếu khôn ngoan, nhưng đó chỉ để nói lên sự tin tưởng của các ngài là bất cứ điều gì làm nguy hại đến sự tương giao với Thiên Chúa đều bị tiêu trừ. Do đó, vì sắc đẹp của ngài được nhiều người ngưỡng mộ nên Thánh Rôsa đã dùng hạt tiêu chà sát lên mặt để tạo thành các vết sưng xấu xí. Sau này, ngài còn đội một vòng bạc dầy cộm trên đầu, bên trong nhét đinh giống như mão gai.
Khi cha mẹ ngài rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh, ban ngày Thánh Rôsa phải làm việc nơi đồng áng và ban đêm phải khâu vá để giúp đỡ gia đình. Mười năm dài tranh đấu với gia đình được khởi đầu khi cha mẹ ép buộc ngài phải kết hôn. Cha mẹ ngài không cho đi tu, và vì vâng lời ngài tiếp tục đời sống cô độc và ăn chay hãm mình ngay tại nhà như một thành viên của Dòng Ba Ðaminh. Vì lòng ước ao muốn được trở nên giống như Ðức Kitô nên hầu hết khi ở nhà, ngài sống trong cô độc.
Trong những năm cuối đời, Thánh Rôsa lập một căn phòng ngay trong nhà để chăm sóc các trẻ em bụi đời, người già yếu và bệnh tật. Ðây là khởi đầu của dịch vụ xã hội ở Peru. Mặc dù có cuộc sống và sinh hoạt tách biệt, ngài cũng bị đưa ra trước Toà Thẩm Tra, nhưng các người thẩm vấn không tìm thấy lý do gì khác hơn là ngài bị ảnh hưởng bởi ơn sủng.
Ðiều chúng ta lầm tưởng rằng đó chỉ là một cuộc sống lập dị thì thực sự đã được biến đổi tự bên trong. Nếu chúng ta nhớ đến cách ăn năn đền tội bất thường của ngài thì chúng ta cũng phải nhớ một điều vĩ đại của Thánh Rôsa: tình yêu Thiên Chúa của ngài quá nồng nhiệt đến nỗi ngài sẵn sàng chịu đựng sự nhạo cười của người đời, chịu cám dỗ mãnh liệt và chịu đau bệnh lâu dài. Khi ngài từ trần năm 31 tuổi, cả thành phố đã tham dự tang lễ của ngài và các chức sắc trong xã hội đã thay phiên nhau khiêng quan tài của ngài.
24 Tháng Tám -Thánh Batôlômêô
Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: "Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng" (Gioan 1:47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời "Tôi thấy anh ở dưới cây vả" (Gioan 1:48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel" (Gioan 1:49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, "Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!" (Gioan 1:50)
Quả thật Natanien đã được nhìn thấy những điều trọng đại. Ngài là một trong những người được Ðức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh (x. Gioan 21:1-14). Lúc ấy các ngài chài lưới cả đêm mà không được gì cả. Vào buổi sáng, họ thấy có người đứng trên bờ dù rằng không ai biết đó là Ðức Giêsu. Ngài bảo họ tiếp tục thả lưới, và họ bắt được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lưới lên nổi. Sau đó Gioan nói với Phêrô, "Chính Thầy đó."
Khi họ dong thuyền vào bờ, họ thấy có đám lửa, với một ít cá đang nướng và một ít bánh. Ðức Giêsu bảo họ đem cho mấy con cá tươi, và mời họ đến dùng bữa. Thánh Gioan kể rằng mặc dù họ biết đó là Ðức Giêsu, nhưng không một tông đồ nào dám hỏi ngài là ai. Thánh Gioan cho biết, đó là lần thứ ba Ðức Giêsu hiện ra với các tông đồ.
Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages. (Nguồn: nguoitinhuu.org)
(HT 13-8-2023)
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ LINH ĐẠO CỦA VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ
NGOÀI THÁNH LỄ
NGOÀI THÁNH LỄ
III. GIÁO PHẬN SỐNG MẦU NHIỆM THÁNH THỂ
Năm Thánh là cơ hội thuận lợi thúc đẩy chúng ta canh tân đời sống đức tin. Con đường đổi mới này phải ngang qua Thánh Thể, bởi vì: «Mọi cam kết nên thánh… phải múc lấy sức mạnh cần thiết từ mầu nhiệm Thánh Thể và quy hướng về mầu nhiệm đó như là tột đỉnh của mình…» Trọn chương trình mục vụ của Giáo Phận được đặt trong viễn tượng của “sự thánh thiện”, khi làm cho Năm Thánh này hoàn toàn thấm nhuần trong linh đạo Thánh Thể. Bí tích làm cho chúng ta trở thành những người thánh và không thể nào có sự thánh thiện mà không được hòa nhập vào trong đời sống Thánh Thể: «Ai ăn Thịt Ta thì sẽ sống nhờ Ta» (Ga 6,57).
Mỗi Giáo xứ cần tổ chức việc cử hành Thánh lễ trong bầu khí tràn đầy đức tin và ân sủng. Mỗi người và mỗi gia đình cần nỗ lực thực hiện một linh đạo Thánh Thể toàn vẹn nghĩa là không chỉ dừng lại ở việc siêng năng dự lễ và thực hiện lòng tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh lễ cách ý thức, mà còn để cho Nhiệm tích Thánh Thể nuôi sống và định hướng cuộc đời ta, uốn nắn ta sống những đòi hỏi của một Kitô hữu như là một «việc tôn thờ thiêng liêng» (x. Rm 12,1). «Không có việc vun trồng một “linh đạo phụng vụ”, thì hành động phụng vụ dễ dàng bị rút gọn về một thứ như là “cử hành hình thức” và làm vô ích ân sủng phát sinh từ việc cử hành».
Vì Thánh Thể trên hết không phải là “chủ đề” được bàn luận, mà là “con tim” của đời sống Kitô hữu, nên «Bí tích Thánh Thể không thể bị đóng khung trong nhà thờ, nhưng phải trở thành “dự án đời sống” và nằm ở nền tảng của một linh đạo Thánh Thể đích thật». Chúa Giêsu đang ân cần chờ đợi ta, chúng ta hãy đến với Người:
1. Hãy đến với Thánh Thể để cảm nếm sự Hiện Diện của Chúa.
Tình yêu đã thúc đẩy Thiên Chúa cao cả tự hủy đến cùng, hiện diện khiêm hạ trong Thánh Thể vì chúng ta và cho chúng ta. Cách tốt nhất để chúng ta ý thức và cảm nếm sự hiện diện của Chúa là sống với Chúa.
Có những lúc chúng ta cùng nhau chiêm ngắm và tôn thờ Chúa Thánh Thể, nhưng hãy tập có được những phút giây quỳ lặng một mình trước Thánh Thể, bởi cầu nguyện không nhất thiết phải nói nhiều mà là yêu mến nhiều. Sự thinh lặng từ môi miệng đến cõi lòng khi không nói, không xin, mà chỉ để được ở bên Chúa, để được Chúa phủ lấp ta bằng sự hiện diện đầy yêu thương của Người. Cầu nguyện trong thinh lặng là để con tim tự do mở ra chiêm ngắm và lãnh nhận tình yêu, là cách thế tuyệt vời để cảm nhận sự hiện diện thân tình của Chúa với mỗi người! Đó là lúc chúng ta đang nghe Chúa ân cần bảo ta: “Hãy ở thinh lặng và lắng nghe, bây giờ con hãy nghỉ ngơi và để Cha hành động!”
Giữa xã hội náo động ngày nay, dành được mười lăm phút bên Chúa mỗi ngày đã khó, mà bỏ lại mọi lo âu để thanh thản hiện diện bên Chúa còn khó gấp bội. Nhưng đó là điều cần vì «Không có sự thinh lặng thì hầu như không thể sống đời sống thiêng liêng. Sự thinh lặng bắt đầu với việc dành một thời gian và không gian nào đó cho Chúa và chỉ cho một mình Chúa mà thôi. Nếu ta thực sự tin rằng Thiên Chúa không chỉ hiện hữu mà còn hiện diện sống động để chữa lành và hướng dẫn đời ta, thì ta cần phải sắp xếp một nơi tĩnh lặng, một giờ nhất định nào đó để chỉ quan tâm tới một mình Chúa (x. Mt 6,6)».
Vì «cảm thức về sự hiện diện của Chúa là một hồng ân Chúa ban, chứ không là kết quả do con người thủ đắc», nếu nỗ lực tập luyện, những khó khăn ban đầu sẽ được vượt thắng và rồi nhờ ơn Chúa, «Kỷ luật của sự thinh lặng cho phép ta dần dần đụng chạm được sự hiện diện đầy hy vọng của Thiên Chúa trong đời ta, và nếm cảm ngay từ bây giờ niềm vui và bình an thuộc về trời mới, đất mới».Một khi có được kinh nghiệm về Chúa, chúng ta sẽ thấy Chúa quý giá tuyệt đối và sẵn sàng đánh đổi tất cả để có Ngài. Sự cầu nguyện trong thinh lặng dần có sức lôi cuốn ta cách mãnh liệt, mang lại cho đời ta sự biến đổi và bình an diệu kỳ.
(kỳ III, Nguồn: dongthanhthe.net)
14 Tháng Tám - Thánh Maximilian Mary Kolbe (1894-1941)
14 Tháng Tám - Thánh Maximilian Mary Kolbe (1894-1941)
Không hiểu tương lai của con sẽ ra sao!" Ðó là câu mà nhiều cha mẹ từng than thở với đứa con hay đau yếu. Nhưng với Thánh Maximilian Mary Kolbe thì khác. Ngay từ nhỏ, khi được cha mẹ hỏi, ngài trả lời, "Con tha thiết cầu xin với Ðức Mẹ để biết tương lai của con. Và Ðức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một mầu đỏ. Ðức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không -- mầu trắng là sự thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời, 'Con muốn cả hai.' Ðức Mẹ mỉm cười và biến mất." Sau biến cố đó, cuộc đời của Maximilian Kolbe không còn giống như trước.
Ngài gia nhập tiểu chủng viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16 tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.
Sau khi thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Ngài sáng lập tổ chức Ðạo Binh của Ðức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập "Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm" - Niepolalanow -- mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ chức Ðạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Tình yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Ðức Maria.
Năm 1939, Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.
Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.
"Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con."
Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.
"Mày là ai?"
"Là một linh mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.
Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cha được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1981.
(Nguồn: nguoitinhuu.org)
(Nguồn: nguoitinhuu.org)
(HT 6-8-2023)
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ LINH ĐẠO CỦA VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ
NGOÀI THÁNH LỄ
NGOÀI THÁNH LỄ
4. Chầu Thánh Thể
«Việc chầu Thánh Thể thôi thúc các tín hữu ý thức về sự hiện diện kỳ diệu của Chúa Kitô và là một lời mời gọi họ hiệp thông thiêng liêng với Chúa. Hơn nữa, đó còn là sự thúc đẩy tuyệt vời để hiến dâng Thiên Chúa sự thờ phượng xứng hợp trong tinh thần và chân lý ».
«Niềm tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa đương nhiên đưa tới việc biểu lộ công khai niềm tin ấy. Lòng sùng mộ thúc đẩy các tín hữu đến với Bí tích Thánh Thể cũng lôi cuốn họ tham dự sâu xa hơn vào Mầu nhiệm Vượt Qua và đáp lại với lòng biết ơn Đấng, qua nhân tính của mình, không ngừng tuôn đổ sự sống thần linh cho các chi thể của Thân Mình Người. Ở bên Đức Kitô, họ được hưởng tình thân sâu xa của Chúa, được gần gũi, tâm sự, cầu xin Chúa cho bản thân, cho người thân, cũng như cho sự bình an và ơn cứu độ của thế giới. Dâng hiến trọn đời sống mình cho Chúa Cha cùng với Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần, họ được gia tăng đức tin, cậy, mến nhờ những cuộc trao đổi tuyệt vời này. Nhờ vậy, họ được nuôi dưỡng những tâm tình chân thực khiến họ có thể cử hành việc tưởng niệm Chúa với lòng sùng mộ thích đáng và năng rước lấy Bánh Thánh mà Chúa Cha đã ban cho ta».
Chúng ta “thinh lặng” trước sự hiện diện của Chúa và mở lòng đón nhận ân sủng tình yêu… «Nhờ phụng thờ Chúa Thánh Thể, ta được biến đổi nên người Chúa muốn! Theo nghĩa đầy đủ, chầu Thánh Thể có nghĩa là “Thiên Chúa và con người vươn đến nhau cùng một lúc!”».
5. Phép lành Thánh Thể
Linh mục hay Phó tế kết thúc Giờ Chầu Thánh Thể bằng việc ban phép lành Thánh Thể cho những người hiện diện. Đây là một trong những á Bí tích.
Bất cứ sự chúc lành nào cũng đều là lời ngợi khen, tạ ơn Thiên Chúa và là lời cầu xin các ân huệ của Ngài. Trong Đức Kitô, các Kitô hữu được chúc lành bởi Thiên Chúa Cha bằng mọi thứ chúc lành thiêng liêng. Bởi vậy, Giáo Hội ban phép lành bằng cách kêu cầu Danh thánh Chúa Giêsu và thường có kèm dấu Thánh Giá của Đức Kitô.
6. Cung nghinh Thánh Thể
«Rước kiệu ngày lễ trọng kính Mình Máu Chúa là “hình thức tiêu biểu” của những cuộc rước kiệu Thánh Thể. Đó là phần nối dài việc cử hành phụng vụ Thánh Thể: ngay sau lễ kính Mình Máu Chúa, Bánh Thánh được truyền phép trong thánh lễ được rước ra khỏi nhà thờ để giáo dân “bày tỏ công khai lòng tin và lòng mến đối với Bí tích Thánh Thể”». «Các tín hữu hiểu rõ và yêu thích những giá trị của việc rước kiệu Thánh Thể: họ ý thức mình là thành phần của “dân Chúa”, đi cùng đường với Chúa và tuyên xưng niềm tin nơi Đấng thật sự là “Chúa ở cùng chúng ta”». «Thánh Thể được rước đi cũng còn là nguồn mạch phúc lành và vô vàn ơn sủng» (x. Cv 10,38).
7. Đại hội Thánh Thể
Thường tổ chức theo từng cấp từ Giáo Hội địa phương tới hoàn vũ. Trong Đại hội Thánh Thể, các Kitô hữu học hỏi về Mầu nhiệm Thánh Thể sâu xa hơn qua việc nghiên cứu về nhiều khía cạnh thần học hay tu đức.
(kỳ II, Nguồn: dongthanhthe.net)
10 Tháng Tám - Thánh Lôrensô (thế kỷ thứ ba)
Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi đức giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Lôrensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi, "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.
Quan Tổng Trấn Rôma, một người tham lam, nghĩ rằng Giáo Hội có giấu giếm nhiều của cải. Do đó, ông ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Vị thánh trả lời, xin cho ba ngày. Thế là ngài đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Ðây là tài sản của Giáo Hội!"
Giận điên người, quan tổng trấn xử phạt Lôrensô phải chết cách thê thảm và chết dần mòn. Vị thánh bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng thánh nhân đang bừng cháy với tình yêu Thiên Chúa nên hầu như ngài không cảm thấy gì. Thật vậy, Thiên Chúa còn ban cho ngài sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi." Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Và ngài tiến lên lãnh nhận triều thiên tử đạo.
(Nguồn:nguoitinhuu.org)
(HT 30-7-2023)
Ý NGHĨA THẦN HỌC VÀ LINH ĐẠO CỦA VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ
NGOÀI THÁNH LỄ
NGOÀI THÁNH LỄ
I. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH LỄ VÀ VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỄ
Giữa Thánh lễ và việc Tôn Thờ Thánh Thể ngoài Thánh lễ có một mối liên hệ nội tại. «Cử hành Hy tế Thánh Thể là nguồn gốc và đích tới của việc tôn thờ được tỏ bày đối với Thánh Thể ngoài thánh lễ». Việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ chính là sự kéo dài thánh lễ chúng ta cử hành, đưa ta đi sâu vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bày tỏ niềm tin yêu, biết ơn đối với Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. «Bao lâu mà Thánh Thể còn được lưu giữ trong các nhà thờ, Chúa Kitô thực là Đấng Emmanuel, là “Chúa ở với chúng ta”. Chúa ở giữa chúng ta ngày và đêm; đầy tràn ân sủng và sự thật».
II. CÁC VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỄ
Các việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh lễ bao gồm:
1. Việc Rước lễ ngoài Thánh lễ
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, «Lý do tiên quyết và căn nguyên của việc lưu giữ Thánh Thể ngoài Thánh lễ là để trao ban “của ăn đàng” (Viaticum)» cho các bệnh nhân.
Những tín hữu không thể tham dự Thánh lễ có thể rước lễ ngoài Thánh lễ, «để họ được liên kết với Chúa Kitô và với hy tế của Ngài được cử hành trong Thánh lễ». Người nhà của bệnh nhân không thể dự lễ, nên dọn lòng rước lễ cùng với bệnh nhân, để nhờ hiệp nhất với Chúa, họ hiệp thông sâu xa hơn với người bệnh trong lời khẩn nguyện và lễ dâng thập giá.
2. Rước lễ thiêng liêng
Rước lễ thiêng liêng là việc sùng kính riêng tư. Một người yêu mến Chúa Thánh Thể sẽ liên lỉ ước ao kết hiệp với Chúa và vì không thể rước cách Bí tích (rước lễ) thì lòng họ khao khát rước Chúa cách thiêng liêng.
Hiệu quả của việc sùng kính này tùy thuộc lòng nhân từ của Chúa đối với lòng yêu mến khao khát nơi mỗi người. Thực hành này đẹp lòng Chúa. Chúa sẽ gìn giữ họ luôn sống trong ân sủng và ban ơn giúp họ ngày càng kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết: "Khi bạn không được rước Mình Thánh Chúa và không tham dự Thánh lễ, bạn có thể rước lễ thiêng liêng, đây là một thực hành đem lại nhiều ơn ích; qua đó tình yêu của Thiên Chúa sẽ ấn dấu mạnh mẽ trên bạn".
Một điểm thuận lợi là ta có thể rước lễ thiêng liêng mỗi ngày nhiều lần, ở bất cứ nơi nào, lúc nào, làm cả ngày sống của ta luôn kết hiệp mật thiết với Chúa, thành lời cầu nguyện liên lỉ như Chúa dạy (x. Lc 18,1; 21,36).
3. Viếng Chúa
«Viếng Thánh Thể lưu giữ trong nhà tạm là việc gặp gỡ Chúa cách ngắn ngủi, được thúc đẩy bởi niềm tin rằng Chúa đang hiện diện tại đây và có đặc điểm là cầu nguyện trong thinh lặng». «Việc viếng Thánh Thể là một bằng chứng của lòng tri ân, một dấu hiệu của tình yêu mến và một bổn phận tôn thờ của ta đối với Đức Kitô, Chúa chúng ta». Thánh Anphonsô Liguori viết: «Trong số các việc đạo đức, việc thờ phượng Chúa Giêsu trong Thánh Thể là cao cả nhất sau các bí tích, việc mà Thiên Chúa yêu thích nhất và đem lại lợi ích cho chúng ta».
(kỳ I, Nguồn: dongthanhthe.net)
1 Tháng Tám: Thánh Anphong Liguori (1696-1787)
Công Ðồng Vatican II xác định rằng, thần học luân lý phải được nuôi dưỡng bởi Phúc Âm, và chứng tỏ được sự cao quý của ơn gọi người Kitô Hữu, và nhiệm vụ của họ là trưng ra kết quả ấy trong đời sống bác ái giữa trần gian. Vào năm 1950, Thánh Anphong được Ðức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý, ngài thật xứng với danh hiệu ấy. Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắt khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của Thánh Anphong.
Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Ðại Học Naples, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài được thụ phong linh mục và dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô Giáo.
Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Ðó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Ðức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
Sự canh tân mục vụ lớn lao của Thánh Anphong là cách giảng thuyết và giải tội -- ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Naples trong 26 năm trường để tổ chức tuần đại phúc.
Ngài được tấn phong giám mục khi 66 tuổi và ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.
Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với "sự tăm tối" vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính.
Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý. Văn bản Các Vinh Dự của Ðức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này, và cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến 40 lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo Hội.
Ngài được phong thánh năm 1831, và được tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1871.
(Nguồn:nguoitinhuu.org)
(HT 23-7-2023)
LỊCH SỬ CỦA BÁNH LỄ: TỪ Ổ BÁNH MÌ ĐẾN BÁNH LỄ HIỆN NAY (Lucia Graziano)
Bánh lễ phổ biến tại Âu châu thời Caroling
Câu chuyện về Wandregisel chỉ là một truyền thuyết – tuy nhiên, một truyền thuyết có cơ sở xác thực, ít nhất là từ quan điểm niên đại. Vị tu sĩ người Pháp này qua đời năm 665, và chính xác là vào cuối thế kỷ đó, ý tưởng cho rằng bánh được truyền phép trong Thánh lễ tốt nhất nên là bánh dẹt và không men dần bắt đầu được áp dụng trong các giáo phận ở Pháp. Cũng có thể không phải Wandregisel là người đầu tiên đã phát minh ra những tấm bánh thánh Rước lễ, mà là một số “đồng sự” của ngài đã nghĩ ra chúng, những người sống cùng thời và cùng địa hạt với ngài.
Trong thế kỷ thứ VIII, tục lệ truyền phép bánh lễ bắt đầu lan rộng dần. Năm 798, Alcuin thành York đã lên tiếng ủng hộ, nhấn mạnh sự giống nhau của bánh lễ với bánh không men mà Đức Giêsu đã ăn trong Bữa Tiệc Ly. Vài năm sau, Thánh Rabanus Maurus chỉ ra rằng Cựu Ước nghiêm cấm việc sử dụng bánh mì có men làm của lễ hy tế. Hẳn nhiên, Giao ước mới đã cho phép Kitô hữu bỏ đi nhiều luật cấm trong Cựu ước, nhưng vị thánh ở Mainz này vẫn giữ quan điểm cho rằng bánh lễ không men nên được ưu tiên hơn trong bối cảnh đó.
Đến thế kỷ thứ IX, tập tục này coi như đã xác định: nhiều nhà phụng vụ dường như xem đó là điều hiển nhiên, và các văn khố của giáo hội bắt đầu ghi lại nhiều thương vụ về các khuôn đúc bánh lễ, thường được trang trí để in các hình ảnh có chủ đề thánh thiêng trên tấm bánh lễ xốp. Đáng kể hơn nữa, các bản văn của thế kỷ X và XI ghi lại những phản đối của một số “người theo chủ nghĩa truyền thống” (hăng hái nhất trong số họ là Tu viện trưởng Eccard IV và Thánh Gallen), những người không đánh giá cao cách tân này và muốn tiếp tục thánh hiến những ổ bánh mì có men thông thường; và chính những lời chỉ trích lẻ tẻ này cho phép chúng ta đoán được mức độ phổ biến của thực hành mới đã hiện diện vào thời điểm đó.
Dù Eccard có nói gì thì nói, các tấm bánh lễ đã tự khẳng định mình cách dễ dàng trên khắp Giáo hội Tây phương. Chúng được giới giáo sĩ độc quyền chuẩn bị, theo một nghi thức long trọng mà một số người thậm chí mô tả là có “mùi thánh”: các hạt ngũ cốc được chọn ra từng hạt, trút vào những chiếc bao được làm đặc biệt cho mục đích này rồi được các tu sĩ đem đi xay trong thinh lặng thánh, họ dùng những khoảnh khắc này để cầu nguyện. Ngược lại, công việc nướng bánh đi kèm với hát kinh và các bài thánh ca: sau đó những chiếc bánh lễ sẵn sàng được mang đến các tu viện và phân phát cho các nhà thờ có nhu cầu.
Như những đồng xu nhỏ làm phong phú tâm hồn
Đây chưa phải là những tấm bánh lễ xốp mà chúng ta biết ngày nay: thẩm định từ những gì mà các nguồn tài liệu của thời đại ấy đã viết, mọi thứ đều khiến chúng ta tưởng tượng được rằng những tấm bánh lễ đầu tiên dùng trong nghi lễ vẫn giữ nguyên kích thước đường kính của những chiếc bánh được mang lên bàn ăn. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng người ta thường lấy chúng để đậy lên trên chén lễ (cho thấy rõ ràng là các tấm bánh phải lớn hơn miệng chén lễ); một vài nguồn tài liệu còn cho chúng ta biết về những chiếc bánh Thánh Thể thậm chí còn đủ lớn để bẻ ra thành những miếng bánh nhỏ đủ cho cả tuần.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, người ta nhận ra rằng hình thức của những chiếc bánh thánh lớn như vậy khiến chúng trở nên cực kỳ dễ vỡ: để tránh khả năng khi bẻ bánh nhiều lần, những mảnh nhỏ có thể vô tình bị rơi vãi, các tu sĩ thấy cần phải chuyển sang dạng một phần nhỏ, có thể nói như vậy. Do đó, những chiếc bánh lễ xốp tròn nhỏ mà ngày nay chúng ta vẫn nhận được khi Rước lễ đã ra đời như thế đó; và ngay cả trong trường hợp này, một số nhà luân lý vẫn nhíu mày: nhìn từ xa, những tấm bánh lễ đó trông giống như những đồng xu, phù hợp với quầy đổi tiền hơn là nơi cầu nguyện!
Nhưng lời chỉ trích đó đã sớm được giải thích lại theo hướng tích cực. Vào thế kỷ XII, thần học gia Honorius thành Autun đã chỉ ra rằng sự so sánh đó là hoàn toàn thích hợp; và quả thực, nó có tính tượng trưng khi tên của Thiên Chúa được in trên bánh lễ, giống như tên của vị vua trị vì được in trên các đồng xu ở trần gian. Theo đánh giá của nhà thần học này, phép loại suy này thật hoàn hảo và đầy tính biểu tượng: ngay cả khi bánh thánh là những đồng xu, theo cách riêng của chúng, thì chúng cũng được Vua trên trời phân phát cách hào phóng. Chúng thực sự là những đồng xu, và nằm trong số những đồng tiền quý giá nhất: những đồng quý kim duy nhất mà nhờ đó ta có thể nếm hưởng đặc ân đối diện với Chúa, mặt đối mặt.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Chuyển ngữ từ: aleteia.org
Nguồn: gpquinhon.org / hdgmvietnam.com
(đăng tiếp kỳ trước và hết)
Chuyển ngữ từ: aleteia.org
Nguồn: gpquinhon.org / hdgmvietnam.com
(đăng tiếp kỳ trước và hết)
26 Tháng Bảy: Thánh Gioankim và Thánh Anna
Trong Kinh Thánh, các thánh sử Mátthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Ðức Giêsu. Các ngài đi ngược trở về tổ tiên dòng họ của Người chỉ để chứng minh rằng Ðức Giêsu là cực điểm của các lời hứa trọng đại. Nhưng bên ngoại của Ðức Giêsu thì bị lãng quên, chúng ta không có một dữ kiện gì về các đấng sinh thành ra Ðức Maria. Ngay cả tên Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết được viết lại sau khi Ðức Giêsu về trời khoảng hơn một thế kỷ.
Tuy nhiên, đức tính anh hùng và thánh thiện của các ngài được suy đoán từ bầu khí của toàn thể gia tộc Ðức Maria. Dù chúng ta dựa trên truyền thuyết về thời kỳ thơ ấu của Ðức Maria hoặc suy đoán từ các dữ kiện trong Phúc Âm, Ðức Maria là một thể hiện của biết bao thế hệ những người siêng năng cầu nguyện mà chính ngài là một người đắm chìm trong các truyền thống đạo đức của người Do Thái.
Các đức tính nổi bật của Ðức Maria khi ngài thi hành các quyết định, khi liên lỉ cầu nguyện, khi trung thành với quy luật tôn giáo, khi bình tĩnh trước những khủng hoảng và khi tận tâm với người bà con -- tất cả những điều này cho thấy một gia tộc khắng khít, yêu thương nhau biết nhìn đến các thệ hệ tương lai trong khi vẫn duy trì truyền thống tốt đẹp của quá khứ.
Thánh Gioankim và Thánh Anna -- dù những tên tuổi này có thật hay không -- đã đại diện cho một chuỗi thế hệ của những người trung tín thi hành bổn phận, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Ðấng Thiên Sai, nhưng họ vẫn âm thầm không ai biết đến.
(nguồn từ nguoitinhuu.org)
(HT 16-7-2023)
LỊCH SỬ CỦA BÁNH LỄ: TỪ Ổ BÁNH MÌ ĐẾN BÁNH LỄ HIỆN NAY (Lucia Graziano)
Các Tin Mừng đã nói rõ ràng: trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu “cầm lấy bánh”. Hẳn nhiên, ta biết rõ rằng bánh mà Đức Giêsu sử dụng phải là bánh không men, biểu tượng của Lễ Vượt Qua (thông tin ít oi này cũng không ngăn được nhiều họa sĩ vẽ Bữa Tiệc Ly mô tả Đức Giêsu cầm một ổ bánh mì có men bình thường). Tuy nhiên, bánh không men và bánh lễ không cùng một sự việc và trông cũng không giống nhau hoàn toàn. Vì vậy, khi nào (và tại sao) có phong tục sử dụng những mẫu bánh lễ xốp nhỏ, màu trắng, trong các cử hành phụng vụ?
Tập tục chắc là có từ lâu, nhưng không phải từ thời đầu của Kitô giáo: các linh mục trong những thế kỷ đầu đã thánh hiến những chiếc bánh mì có men thông thường rồi phân phát các miếng nhỏ cho các tín hữu. Nhưng bánh lễ hiện đại bắt nguồn từ khi nào?
Để trả lời câu hỏi này, ta có thể nại đến một truyền thuyết hay vài nguồn tài liệu lịch sử. Và vì truyền thuyết thì luôn có tính hấp dẫn, nên chúng ta sẽ bắt đầu bằng lựa chọn này trước khi chuyển sang lựa chọn thứ hai để có câu trả lời chặt chẽ hơn.
Bánh lễ hiện đại: Do một tu sĩ phát minh khi đưa ra quyết tâm cho Mùa Vọng (theo truyền thuyết)
Nhân vật chính trong câu chuyện của chúng ta là Thánh Wandregisel, người thành lập tu viện Fontanelle ở Pháp. Vào thời ấy (tiền bán thế kỷ VII), gia đình quý tộc của ngài được coi là quan trọng: thật thú vị khi biết rằng bác của Wandregisel là ông tổ của vương triều Caroling. Nhưng, bất cần đến những vinh dự của gia đình (và nói thẳng ra là không quan tâm đến những thứ mà ngài có thể kiếm chác được từ đó), Wandregisel đã chọn cuộc sống sám hối và hãm mình, mặc áo tu sĩ.
Truyền thuyết kể rằng ngài được giao nhiệm vụ chuẩn bị những ổ bánh mì sẽ được thánh hiến trong Thánh lễ Giáng Sinh. Lúc đó là giữa mùa đông, và đó là tháng 12 lạnh nhất. Vài tuần trước, ngay đầu Mùa Vọng, Wandregisel đã quyết tâm chịu lạnh mà không làm bất cứ điều gì để sưởi ấm mình, dâng hiến việc hãm mình đó để đền tội mình và vì lợi ích của Giáo hội.
Vì thế, khi được chỉ định ngồi lò để chuẩn bị bánh cho phần Rước lễ, ngài ta thấy mình trong một tình thế khó xử: làm sao có thể nướng bánh mà không hưởng lấy hơi ấm của lò mà ngài đã hứa là phải nhịn? Chắc chắn ngài không thể từ chối nhiệm vụ đã nhận (vì việc hãm mình có ảnh hưởng đến những người lựa chọn chúng mà không được ảnh hưởng đến những người khác, tạo ra một phản ứng dây chuyền về các vấn đề liên quan); tuy nhiên, Wandregisel tìm cách để không vi phạm quyết tâm của mình trong Mùa Vọng đó, điều mang lại cho ngài rất nhiều lợi ích.
Sau khi xoay trở vấn đề, vị tu sĩ này ra ý tưởng dùng chiếc kẹp sắt dài, giống như những chiếc kẹp mà người thợ rèn dùng để cầm những vật nóng chảy trong lò rèn. Ngài gắn vào lưỡi kẹp hai dĩa kim loại thích hợp để giữ hỗn hợp bột và nước; và rồi cầm cán dài của dụng cụ đó, đứng ở một khoảng cách an toàn với lò sưởi, vị ẩn tu đã xoay sở để nướng hàng trăm ổ bánh mì mà không hề “bị” ấm một chút nào!
Vấn đề phức tạp đã xảy ra: những chiếc bánh quy giòn ra khỏi lò nướng thay vì những ổ bánh mì. Khi bị ép bằng kẹp, bánh mì có hình tròn và dẹt, thành một chiếc bánh xốp giòn. Nhưng kết quả đã không làm phật lòng các tu sĩ trong tu viện chút nào, họ thực sự đánh giá cao loại bánh mì mới này vì giữ được lâu và dễ bảo quản. Trong vòng vài năm, khám phá của Wandregisel đã được chấp nhận đến mức nó trở thành quy chuẩn cho toàn thể Giáo hội Công giáo: tất cả là nhờ một tu sĩ không muốn phá vỡ quyết tâm Mùa Vọng của mình!
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Chuyển ngữ từ: aleteia.org
Nguồn: gpquinhon.org / hdgmvietnam.com
(sẽ đăng tiếp kỳ sau)
16 Tháng Bảy: Ðức Bà Núi Camêlô
Từ thế kỷ 12, ở núi Camêlô đã có các vị ẩn tu sống gần một suối nước mà Tiên Tri Elijah từng sinh sống ở đây. Họ xây một nguyện đường dâng kính Ðức Mẹ. Cho đến thế kỷ 13, họ được gọi là "Các Tiểu Ðệ của Ðức Bà Núi Camêlô." Sau đó, họ dành một ngày đặc biệt để mừng kính Ðức Maria. Vào năm 1726, ngày lễ ấy trở nên chính thức trong Giáo Hội hoàn vũ dưới tên Ðức Bà Núi Camêlô. Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Camêlô tự coi mình có liên hệ đặc biệt với Ðức Maria. Các thần học gia và các thánh vĩ đại của dòng Camêlô thường cổ động lòng sùng kính Ðức Maria và bênh vực cho đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria.
Thánh Têrêsa Avila gọi Dòng Camêlô là "Dòng của Ðức Trinh Nữ." Thánh Gioan Thánh Giá cho rằng Ðức Maria đã cứu ngài khỏi chết đuối khi còn nhỏ, đã dẫn dắt ngài đến dòng Camêlô và đã giúp ngài thoát khỏi tù ngục. Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu tin rằng Ðức Maria đã chữa ngài khỏi bệnh. Vào ngày Rước Lễ Lần Ðầu, ngài dâng mình cho Ðức Maria. Trong những ngày cuối đời, ngài thường nói về Ðức Maria.
Có một truyền thuyết nói rằng Ðức Maria đã hiện ra với Thánh Simon Stock, một bề trên Dòng Camêlô, và đã trao cho ngài một khăn choàng, bảo ngài hãy cổ động lòng sùng kính khăn ấy. Khăn choàng là một hình thức biến đổi của áo Ðức Bà. Nó tượng trưng cho sự bảo vệ đặc biệt của Ðức Maria và kêu gọi người mang khăn ấy hãy tận hiến cho ngài trong một phương cách đặc biệt. Hiển nhiên, điều này không có nghĩa được cứu chuộc một cách lạ lùng. Ðúng hơn, khăn choàng nhắc nhở chúng ta nhớ đến lời mời gọi của Phúc Âm là hãy siêng năng cầu nguyện và hãm mình đền tội -- là lời mời gọi mà Ðức Maria đã thể hiện một cách tốt đẹp nhất.
22 Tháng Bảy: Thánh Maria Mađalêna
Trong Phúc Âm, ngoại trừ mẹ Ðức Giêsu, ít phụ nữ được vinh dự bằng Maria Mađalêna. Tuy nhiên, người rất thích hợp là quan thầy của những người bị phỉ báng, vì trong Giáo Hội, luôn luôn người ta cho rằng người là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Luca 7:36-50.
Hầu hết các học giả ngày nay đều cho rằng sự lẫn lộn ấy không có căn bản Phúc Âm. Maria Mađalêna, chính là “Maria Mácđala”, người được Ðức Kitô chữa khỏi “bảy quỷ” (Luca 8:2) -- đó là một biểu thị về sự quỷ ám nặng nề hoặc, có thể, bị bệnh nặng.
Cha W.J. Harrington, dòng Ða Minh, trong cuốn New Catholic Commentary (Chú Giải Mới của Công Giáo), người viết “bảy quỷ” “không có nghĩa là Maria sống một cuộc đời đồi bại -- đó là một kết luận do bởi nhầm lẫn Maria với người phụ nữ vô danh trong Phúc Âm theo Thánh Luca 7:36. Cha Edward Mally, dòng Tên, trong cuốn Jerome Biblical Commentary (Chú Giải Phúc Âm Thánh Giêrôm), cha đồng ý rằng Maria Mađalêna “không phải là người tội lỗi như được viết trong Luca 7:37, dù rằng sau này Tây Phương có truyền thống gán ghép điều ấy cho người.”
Maria Mađalêna là một trong những người “đã giúp đỡ các người (Ðức Giêsu và Nhóm Mười Hai) bằng các phương tiện của họ.” Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Ðức Giêsu với Ðức Mẹ. Và, trong các nhân chứng “chính thức” đã được chọn để chứng kiến sự Phục Sinh, thì người là một trong những người được ưu tiên đó.
Có lẽ Thánh Maria Mađalêna từng mỉm cười khi bị “nhận diện sai lầm” trong 20 thế kỷ. Tuy nhiên, chắc chắn rằng người không cho đó là điều khác biệt. Tất cả chúng ta là kẻ có tội đều cần đến ơn cứu chuộc của Thiên Chúa, dù tội lỗi chúng ta có kinh khiếp hay không. Quan trọng hơn nữa, cùng với thánh nữ, tất cả chúng ta là các nhân chứng “bán chính thức” của sự Phục Sinh.
(nguồn từ nguoitinhuu.org)
(nguồn từ nguoitinhuu.org)
(HT 9-7-2023)
11 Tháng Bảy: Thánh Bênêđích (Biển Ðức) (480?-543)
Thật đáng tiếc là không ai viết nhiều về một vị đã thể hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan viện Tây Phương. Thánh Bênêđích được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ thảo của biết bao điều lạ lùng trong cuộc đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một "Ðại Ðan Viện", đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.
Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích.
15 Tháng Bảy: Thánh Bônaventura (1221-1274)
15 Tháng Bảy: Thánh Bônaventura (1221-1274)
Thánh Bônaventura -- một tu sĩ Phanxicô, một thần học gia, một Tiến Sĩ Hội Thánh --vừa uyên bác và vừa thánh thiện. Vì nét linh đạo luôn luôn thể hiện nơi con người và văn bản của ngài, nên lúc đầu ngài được gọi là Tiến Sĩ Ðạo Ðức; nhưng trong các thế kỷ gần đây ngài được gọi là Tiến Sĩ Thánh theo gương "Cha Thánh" là Thánh Phanxicô, vì ngài sống tinh thần đích thực của một tu sĩ Phanxicô
Vào năm 1257, ngài được chọn làm bề trên Dòng khi mới ba mươi lăm tuổi và đã thành công trong việc hòa dịu các xáo trộn trong Dòng vì những bất đồng nội bộ. Ngài rất có công với Dòng và đã viết lại tiểu sử của Thánh Phanxicô. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê IV bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của York, nhưng ngài xin đừng ép buộc phải chấp nhận vinh dự ấy. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô X đã buộc ngài phải chấp nhận một vinh dự cao hơn, đó là chức Hồng Y và Giám Mục của Albanô.
Vào sáng ngày 15 tháng Bảy 1274, trong khi Công Ðồng Lyon II đang khai diễn, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô X và các giáo phụ trong Công Ðồng đã phải bàng hoàng khi nghe tin Ðức Bônaventura từ trần. Một người chép sử vô danh đã ghi lại cảm tưởng về ngài: "Một người uyên bác có tài hùng biện, và thánh thiện ngoại hạng, ngài nổi tiếng về sự nhân từ, dễ làm quen, hòa nhã và giầu lòng thương người. Với tất cả các đức tính ấy, ngài được Thiên Chúa yêu dấu và thực sự là một con người. Trong tang lễ của ngài, nhiều người đã nhỏ lệ, vì Thiên Chúa đã ban cho ngài một ơn sủng, đó là bất cứ ai biết đến ngài đều quý mến ngài một cách chân thành."
(nguồn từ nguoitinhuu.org)
(nguồn từ nguoitinhuu.org)
(HT 2-7-2023)
3 Tháng 7: Thánh Tôma Tông Ðồ
Thật tội nghiệp cho Thánh Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (x. Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng ta có được lời nhận định của Ðức Giêsu: "Anh tin là vì anh đã thấy Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin" (Gioan 20:29).
Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài. Có thể điều ngài nói là do bốc đồng -- vì ngài cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Ðức Giêsu bị bắt bớ -- nhưng chắc chắn ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Ðức Giêsu. Ðó là khi Ðức Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ khác, "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy" (Gioan 11:16b). Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Ðức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông Ðồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthi, Medes, và Ba Tư; sau cùng ngài đến Ấn Ðộ, đem Ðức Tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô Hữu của Thánh Tôma." Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết ở nơi gọi là Calamine.
6 Tháng 7: Thánh Maria Goretti (1890-1902)
Thánh Maria Goretti sống ở trần thế có 12 năm, nhưng câu chuyện cuộc đời của thánh nữ đã xúc động biết bao tâm hồn.
Maria Goretti là con gái của một gia đình nghèo người Ý, mà cha chết sớm, chỉ còn người mẹ tần tảo nuôi con. Cô không có cơ hội để đi học, do đó cũng không biết đọc và biết viết. Khi rước lễ lần đầu, cô là một thiếu nữ to con so với cả lớp.
Trong buổi trưa hè oi ả vào tháng Bảy, Maria một mình ngồi may vá trên các bậc thang trong căn nhà lụp xụp. Lúc ấy, cô chưa đến 12 tuổi, nhưng cơ thể cô đã phát triển đẫy đà. Một chiếc xe bò dừng ở bên ngoài, và người thanh niên hàng xóm là Alessandro, 18 tuổi, chạy vào nhà, bước vội lên cầu thang. Hắn tấn công Maria và lôi cô vào phòng ngủ để hãm hiếp. Cô kháng cự và kêu cứu, trong hơi thở dồn dập cô cho biết thà chết còn hơn là phạm tội. "Ðó là tội. Chúa không muốn như vậy. Anh sẽ xuống hỏa ngục vì tội này." Như một con thú điên, Alessandro rút dao đâm túi bụi vào người Maria Goretti.
Trong khi nằm ở bệnh viện, Maria đã tha thứ cho Alessandro trước khi từ trần.
Kẻ sát nhân bị án tù 30 năm. Trong một thời gian dài, hắn vẫn không ăn năn sám hối và hay bực tức. Một đêm kia hắn mơ thấy Maria, tay cầm một bông hoa và trao cho hắn. Kể từ đó, cuộc đời Alessandro thay đổi. Sau khi được trả tự do, hành động đầu tiên của Alessandro là đến xin người mẹ của Maria tha thứ cho mình.
Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng, nhiều phép lạ đã được ghi nhận và chưa đầy nửa thế kỷ, Maria Goretti đã được tuyên xưng á thánh. Trong buổi lễ phong chân phước, mẹ của Maria Goretti (lúc ấy 82 tuổi), hai cô em gái và một em trai cùng xuất hiện với Ðức Giáo Hoàng Piô XII ở bao lơn Công Trường Thánh Phêrô. Ba năm sau, vào năm 1950, ngài được phong thánh. Trong đám đông những người dự lễ có Alessandro Serenelli, lúc ấy đã 66 tuổi, đang quỳ gối với hai hàng nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má.
Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo vì ngài đã chiến đấu chống trả hành động bạo lực của Alessandro. Tuy nhiên, khía cạnh quan trọng nhất của thánh nữ là sự tha thứ cho kẻ xúc phạm, mà ngài vẫn lưu tâm đến kẻ thù ngay cả sau khi chết. Thánh Maria Goretti được đặt làm quan thầy giới trẻ và các nạn nhân bị hãm hiếp.
(nguồn từ nguoitinhuu.org)