trung tâm công giáo việt nam

GIÁO PHẬN ORANGE, CALIFORNIA, USA

1538 Century Blvd, Santa Ana, CA 92703
Phone: (714) 554-4211
Email: hiepthong2013@gmail.com
Thánh Lễ  được cử hành lúc 8:30 sáng giờ California mỗi ngày

Linh mục Giám Đốc: cha Joseph Nguyễn Thái

Lịch Giải Tội Mùa Vọng 2024

CĐ Huntington Beach        Thứ Hai       02/12   7:00 PM

CĐ Chúa Kito Cứu Thế      Thứ Hai       02/12   7:00 PM

CĐ Anaheim                       Thứ Ba        03/12   7:15 PM

CĐ Thánh Linh                   Thứ Tư        04/12   7:00 PM

CĐ Saint Polycarp              Thứ Tư        04/12   7:00 PM

CĐ Saint Columban            Thứ Ba        10/12   7:00 PM

CĐ Đức Mẹ La Vang          Thứ Hai       16/12   7:00 PM

CĐ Đức Mẹ HCG               Thứ Hai       16/12   7:00 PM

CĐ Westminster                 Thứ Hai       16/12   7:00 PM

CĐ Westminster                  Thứ Ba        17/12   7:00 PM

CĐ St Thomas More           Thứ Ba        17/12   7:00 PM

CĐ Chính Tòa                     Thứ Tư        18/12   7:00 PM

CĐ Orange:                         Thứ Tư        18/12   7:00 PM

CĐ Saint Barbara                Thứ Tư        18/12   7:00 PM

CĐ Saint Barbara                Thứ Năm     19/12   7:00 PM

CĐ Orange:                         Thứ Năm     19/12   7:00 PM

Lịch Tĩnh Tâm Mùa Vọng 2024

CĐ Thánh Linh:                  Thứ Hai 02/12 & Thứ Ba 03/12, 6:00 p.m.

CĐ Westminster:                 Thứ Tư 04/12, 7:00 p.m.

CĐ St Polycarp:          Thứ Năm 05/12 & Thứ Sáu 06/12, 6:00 p.m.

CĐ Anaheim:                      Thứ Ba 10/12, 7:15 p.m.

CĐ St. Barbara:                   Thứ Sáu 13/12, 6:30 p.m.

CĐ Chính Tòa :                   Thứ Hai 16/12 & Thứ Ba 17/12, 7:00 p.m.

CĐ Huntington Beach:       Thứ Năm 19/12 & Thứ Sáu 20/12, 6:00 p.m.

CĐ Đức Mẹ La Vang: Thứ Sáu 20/12, 6:00 p.m.

Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội - Thứ Hai 9/12/2024 (Lễ Trọng và Buộc)

CĐ St. Barbara:                   6:30 a.m., 12:00 trưa, 4:00 p.m., 5:30 p.m. & 8:30 p.m.

CĐ Chính Tòa :                   6:30 a.m., 12:10 trưa & 5:30 p.m.

CĐ St. Columban:   6:30 a.m., 10:00 a.m. & 5:30 p.m.

Trung Tâm CG:                  8:30 a.m.

CĐ Đức Mẹ La Vang:        8:30 a.m., 5:30 p.m. & 7:00 p.m.

CĐ Westminster:                 12:10 trưa, 3:00 p.m., và 6:00 p.m.

CĐ Thánh Linh:                  12:15 trưa & 6:00 p.m.

CĐ Orange  :                   5:00 p.m

CĐ Đức Mẹ HCG:  5:30 p.m

CĐ Trái Tim VN Đức Mẹ: 5:30 p.m

CĐ Costa Mesa:                  6:30 p.m.

CĐ Huntington Beach:       7:00 p.m.

CĐ St Thomas More:  7:00 p.m.

CĐ Costa Mesa:                  7:00 p.m.

CĐ Anaheim:                      8:00 p.m.

CĐ Thánh Antôn:   8:00 p.m.


Radio 1480 AM - Sống Đức Tin - Phát Thanh Hằng Tuần 8pm-9pm Thứ Năm: Link --> 20241128 Radio 20241121 Radio

LECTIO DIVINA

HỌC HỎI – SUY NIỆM - CHIA SẺ TIN MỪNG 

Xin NHẤP vào đây để có các bài Suy Chiêm


Thứ Ba 03-12-2024 Thánh Phanxicô Xaviê, linh mục. Lễ nhớ.

Thứ Tư 04-12-2024  Thánh Gioan Đa-mát, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.

Thứ Sáu 06-12-2024 Thánh Ni-cô-la, giám mục.

Thứ Bảy 07-12-2024 Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

Chúa Nhật 08-12-2024 Chúa Nhật II Mùa Vọng. Năm C.

 

CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG

SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA

Tình thương và uy quyền của Thiên Chúa vẫn ấp ủ và bảo vệ con người; nhưng để cảm nhận được, con người cần có con mắt đức tin và trái tim đầy tình yêu. Nhiều người nghĩ họ có thể đi tìm vinh quang cho cuộc đời mà không cần biết đến Thiên Chúa; nhưng thực tế đã chứng minh đó chỉ là vinh quang nhất thời, giả tạo, và không mang lại niềm vui cũng như bình an đích thực cho con người.

Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật tầm quan trọng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống con người và sự cần thiết phải sửa dọn tâm hồn để có thể lãnh nhận Ngài. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruch nhận ra sự khờ dại của toàn thể con cái Israel khi họ từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang và vinh quang giả tạo của trần thế. Hậu quả là mất nước, Đền Thánh bị phá hủy, và vua quan cũng như dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ. Tiên-tri cũng nhận ra tình thương và uy quyền của Thiên Chúa: nếu toàn dân chịu xám hối và ăn năn trở lại, Thiên Chúa sẽ hủy bỏ tang phục mà họ đang mặc trên mình. Ngài sẽ mặc cho họ áo choàng công chính, đội triều thiên vinh quang, và chiếu dọi ánh vinh quang vĩnh cửu của Ngài trên họ.

Trong Bài Đọc II, Phaolô, sau khi đã có kinh nghiệm về hạnh phúc của một người được Thiên Chúa hoàn toàn chiếm hữu, đã chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tín hữu cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc như ông; nhưng họ phải hoàn toàn đặt trọn niềm tin yêu nơi Đức Giêsu Kitô và cố gắng sống tinh tuyền thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Ngài đến. Trong Phúc Âm, Gioan Tiền Hô được Thiên Chúa trao sứ vụ dọn đường cho Đấng Thiên Sai tới bằng việc kêu gọi con người sửa dọn tâm hồn và thay đổi cuộc sống. Bổn phận của Gioan Tẩy Giả được sai tới là để chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận Thiên Chúa. Sứ vụ của ông đã được loan báo trước trong sách ngôn sứ Isaiah: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.” Không phải ai cũng có khả năng đón nhận món quà vô giá Thiên Chúa gởi đến là Người Con Một của Ngài. Để có thể nhận ra và đón nhận Ngài, con người phải chuẩn bị tâm hồn cùng với ơn thánh của Thiên Chúa. Điều Gioan khuyên dân chúng đây không phải là những chuẩn bị bề ngoài, mà là tâm hồn bên trong. Con người phải loại trừ những kiêu căng, ích kỷ, mọi thứ tham lam… trước khi họ có thể nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa.”

     Lạy Chúa Giesu, sám hối không phải là điều dễ thực hiện. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúa là Đấng trong sạch thánh thiện, thế mà lại tình nguyện đến xếp hàng, đứng chung với các tội nhân để xin Gio-an làm phép rửa. Tuy vô tội, nhưng Chúa đã muốn trở nên bạn đồng hành của lòai người chúng con khi mang lấy thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con. Xin cho chúng con biết điều chỉnh cách suy nghĩ và lối sống của mình hầu được ơn sám hối thực sự trong Mùa Vọng này.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(12-8-2024)

 

CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG

Chờ đợi và chuẩn bị

Hôm nay, Giáo Hội dẫn chúng ta vào Mùa Vọng, là mùa của ngóng trông và đợi chờ Ngày Chúa đến lần thứ hai. Không như người vợ trên Hòn Vọng Phu chờ đợi đến hóa đá, vì chinh phu không bao giờ trở về; người tín hữu chờ đợi những gì chắc chắn sẽ xảy ra, vì đó là điều Thiên Chúa hứa. Không như người vợ chờ đợi mà không làm gì cả nên mới hóa đá; người tín hữu vẫn tích cực chuẩn bị trong khi chờ đợi bằng cách cầu nguyện và thăng tiến không ngừng.

Các Bài Đọc hôm nay đưa chúng ta ngược giòng lịch sử cứu độ để nhìn lại sự chờ đợi của tổ tiên chúng ta và những gì cần phải làm trong khi chờ đợi.

Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah nhắc lại lời sấm của Thiên Chúa: “Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israel và về Judah;” để cung cấp niềm hy vọng cho con cái Israel đang sống nơi lưu đày vì thái độ bất trung của vua quan cũng như của dân chúng. Theo lời hứa của Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho dân một Đấng Thiên Sai, xuất thân từ giòng dõi David, để cai trị dân chúng trong công bình chính trực. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Thesalonica những gì phải làm trong khi chờ đợi Đức Kitô đến lần thứ hai. Họ phải có đức bác ái, bền tâm vững chí trước đau khổ, và luyện tập nhân đức không ngừng để trở nên tinh tuyền, thánh thiện, hầu xứng đáng được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho dân chúng biết về Ngày Ngài sẽ trở lại lần thứ hai để phán xét và thưởng phạt. Tùy vào sự chuẩn bị, con người sẽ có thái độ khác nhau về Ngày đó. Nếu một người không chuẩn bị, họ sẽ sợ hãi kinh hồn vì phải đối diện với sự phán xét và hình phạt của Thiên Chúa; nhưng nếu một người đã chuẩn bị và luôn làm theo những lời Đức Kitô dạy, tỉnh thức và cầu nguyện, họ sẽ vui mừng vì đó là Ngày họ được lãnh nhận ơn cứu độ.

Chúng ta có thể phân biệt ba giai đoạn chính của Lịch Sử Cứu Độ: Thứ nhất, dân tộc Do-thái được Thiên Chúa lựa chọn để chuẩn bị cho Đức Kitô đến lần thứ nhất. Điều này đã được các ngôn sứ loan báo và đã xảy ra. Thứ hai, khi Đức Kitô đến, Ngài loan báo cho mọi người Ngày Ngài sẽ đến lần thứ hai để xét xử và ban thưởng ơn cứu độ. Điều này chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai vì đó là lời Thiên Chúa hứa. Thứ ba, giữa hai thời này là thời hiện tại của mỗi người chúng ta. Chúng ta cần ý thức điều này, có thể chúng ta sẽ chết trước khi Ngày Tận Thế tới. Ngày chúng ta chết là ngày tận thế của cuộc đời chúng ta; vì thế, mỗi khi Mùa Vọng tới, chúng ta phải nhìn lại tâm hồn để kiểm điểm xem Đức Kitô đã đến với tâm hồn chúng ta chưa, và chúng ta đã làm gì để chuẩn bị cho biến cố Ngài đến lần thứ hai? Đề nghị áp dụng cụ thể:

– Hãy bền tâm vững chí trong khi chờ đợi, bằng cách tránh xa tội lỗi, và luyện tập nhân đức để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện.

–Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn bằng cách tránh chè chén say sưa và lòng ham muốn những sự trần thế. Vậy thì, Đức Kitô đã thực sự đến trong tâm hồn chúng ta chưa? Chúng ta có làm theo những gì Ngài căn dặn trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai không?

Lm Joseph Nguyễn Thái

(12-1-2024)

 

LỄ CHÚA KITO VUA

ĐỨC KITO VUA SỰ THẬT.

Con người ao ước được biết sự thật, nhưng bị vây quanh bởi những giả dối của thế gian: đồ giả, vàng giả, người giả, cha giả, sư giả, thần giả… Con người mong muốn được đối xử chân tình, nhưng lòng người lắm nẻo quanh co và khó đoán như bài toán đố; hứa đó rồi thất hứa vì những lợi nhuận vật chất làm con người thay đổi còn nhanh hơn chong chóng… Làm sao để học biết sự thật và cảm nhận được tình yêu chân thành?

May mắn cho con người, các Bài Đọc hôm nay chỉ đường cho con người để biết đâu là nguồn gốc của sự thật; con người không thể tìm đâu khác ngoài Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel tường thuật thị kiến một Con Người lãnh quyền vương đế, vinh quang, và thống trị vĩnh cửu muôn đời từ Thiên Chúa. Tất cả mọi người trên vũ trụ sẽ phải tuân phục quyền bính của Người Con này. Trong Bài Đọc II, tác giả Sách Khải Huyền xác tín Đức Kitô là Vua muôn thuở và muôn đời; ngay cả lúc Ngài hy sinh chịu chết vì con người. Mọi người đã giết và từ chối Đức Kitô sẽ đấm ngực than khóc khi nhìn thấy triều đại Người trị đến trong vinh quang. Trong Phúc Âm, cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và quan Tổng Trấn Philato nêu bật sự khác biệt giữa vua thế gian và vua Nước Trời. Philato hiểu Đức Giêsu muốn làm vua kiểu của thế gian như phần đông người Do-thái; trong khi Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Vua của Nước Trời, Vua của sự thật. Tất cả những ai biết lắng nghe và sống theo sự thật là con dân của Nước Trời, dưới quyền cai trị của Đức Kitô.

Phải, chỉ có Đức Kito mới đem lại cho chúng ta ý nghĩa và hạnh phúc của cuộc đời, vì Ngài được Thiên Chúa trao ban mọi uy quyền, vinh quang, và vương vị. Chúng ta hãy mời Ngài vào tâm hồn để làm vua hướng dẫn, cai trị, và bảo vệ chúng ta. Còn thế gian đầy dẫy những gian trá và mưu mô đen tối để lừa lọc con người. Sự thật chỉ có nơi Đức Kitô vì Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Nếu muốn tìm hiểu sự thật, chúng ta hãy đến học với Ngài.

Vào ngày thứ Bẩy 30 tháng 11, 2024 chúng ta mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, bổn mạng của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại giáo phận Orange. Xin các ngài giúp chúng ta biết noi gương các ngài dám sống đến cùng cho sự thật của ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu vào Chúa Kito Vua mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(11-24-2024)

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN

Đức Kitô đến lần thứ hai

Trong những ngày cuối năm Phụng Vụ, Lời Chúa nhắc nhở rất nhiều về Ngày Đức Kitô đến lần thứ hai để xét xử con người. Khi nghe những lời báo trước về Ngày Tận Thế, con người có thể có ba thái độ: Thứ nhất, có người tin Lời Chúa và bắt đầu chuẩn bị cho Ngày ấy tới như Thiên Chúa nói, bằng cách khử trừ tội lỗi và luyện tập để sống thánh thiện. Thứ hai, có người cho là Ngày ấy còn xa, cứ việc ăn chơi cho thỏa chí; khi nào Ngày ấy gần xảy ra sẽ ăn năn cũng không muộn. Sau cùng, có những người cho đó là chuyện hoang đường bầy ra để dọa nạt trẻ con. Đối với họ, chết là hết; bao lâu còn sống cần phải thụ hưởng tối đa những gì thế gian dâng tặng.

Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những báo hiệu về Ngày Tận Thế và những gì con người cần làm để chuẩn bị cho Ngày ấy. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel báo hiệu đó là Ngày khốn khổ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Ngày ấy, Tổng Lãnh Thiên Thần Michael sẽ bảo vệ những người được Thiên Chúa chọn, và mọi người sẽ sống dạy để chịu phán xét và lãnh nhận thưởng phạt tùy theo công việc họ làm khi còn sống. Trong Bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng báo trước cho các môn đệ hai điều: về những điềm trời xảy ra trước Ngày Tận Thế: các hành tinh của Thái Dương Hệ sẽ thôi chiếu sáng và đêm tối sẽ bao trùm mặt đất; và ngày ấy chắc chắn sẽ đến; nhưng không ai biết được ngày và giờ nào; vì thế, con người phải luôn biết chuẩn bị.

Phải, trong cuộc đời, ngoài những điềm trong vũ trụ, con người còn được Thiên Chúa cho chứng kiến sự ra đi của những người thân trong gia đình, bạn bè, và những người chung quanh. Những sự ra đi này nhắc nhở cho con người biết sẽ đến ngày ra đi của mình, và con người không biết lúc nào vì trong những người đã ra đi không phải chỉ có những người lớn tuổi, mà còn đủ mọi hạng tuổi. Sự giả định mình chỉ chết khi lớn tuổi không có gì vững chắc cả; vì thế, cách tốt nhất là luôn chuẩn bị như ngày hôm nay là ngày tận thế của đời mình và sống làm sao để khỏi ân hận.

Khi Thánh GH Gioan XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình của ngài, nhưng ngài biết mình khó sống thêm nên thường nói với những người chung quanh: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Đến ngày cuối cùng khi giờ chết sắp đến, thư ký riêng tới bên giường hôn tay ĐGH và hỏi thăm xem ngài cảm thấy trong mình thế nào. Đức Gioan trả lời: “Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo”. Vị thư ký nói: “Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…” ĐGH ngắt lời hỏi: “Họ nói với con thế nào?” Vị linh mục nghẹn ngào nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng”. Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. ĐGH âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói: “Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng”. Phải có một niềm tin vững mạnh lắm, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời.

Lm Joseph Nguyễn Thái.

(11-17-2024)

CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN

HY SINH CUỘC ĐỜI

Nhiều người ngày nay sợ hy sinh vì nó ảnh hưởng đến thể xác, ý muốn, và thời gian hưởng thụ của họ; nhưng nếu mọi người đều sợ và sống ích kỷ, làm sao thế giới này có thể tồn tại chứ đừng nói tới việc thăng tiến cá nhân và xã hội. Tình yêu thực sự đòi phải hy sinh tất cả những gì mình có, chứ không phải chỉ cho đi những của dư thừa mà thôi. Hơn nữa, hy sinh không chỉ cho Thiên Chúa và tha nhân cái mình có, mà sự hy sinh cao cả nhất một người có thể làm được là phải hy sinh chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân nữa.

Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những hy sinh anh hùng của các tâm hồn cao quí, cho dù có phải hy sinh mạng sống mình. Trong Bài Đọc I, sự hy sinh của bà góa thành Zareptha: Bà can đảm hy sinh nắm bột và chút dầu còn lại sau cùng để làm bánh cho tiên tri Elijah và hai mẹ con; dẫu Bà biết ăn xong là hai mẹ con sẽ chết vì đói. Kết quả của niềm tin vào lời ngôn sứ, hai mẹ con có bánh ăn muôn đời. Trong Bài Đọc II, nhờ sự hy sinh vô cùng cao quí của Đức Kitô đã hy sinh đổ máu trên Thánh Giá một lần, con người được thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi và được sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy có cặp mắt thần để biết đánh giá đúng các hành động của con người. Người thế gian dễ bị đánh lừa bằng các hành động phô trương bên ngoài; nhưng người môn đệ Chúa phải biết nhìn sâu và đánh giá tâm hồn bên trong, dù hành động bên ngoài của con người xem ra rất tầm thường.

(1) Xét đoán theo cách thức bên ngoài của thế gian: Nhiều người sẽ trầm trồ khen ngợi những người bỏ tiền nhiều vào thùng, và kết luận họ có lòng quảng đại với Thiên Chúa; nhưng Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng dễ kết luận như thế, vì có thể đó chỉ là những của dư thừa của người giầu.

(2) Xét đoán theo tâm hồn bên trong của Thiên Chúa: bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá khoảng một phần tư đồng xu Rôma. Chúa Giêsu nói các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

Thiên Chúa không phán xét theo số lượng con người đóng góp, vì Ngài ban cho mỗi người tài năng và số lượng khác nhau; nhưng Ngài phán xét theo sự cố gắng của con người. Nhiều lần Chúa Giêsu nói: “Ai được ban tặng nhiều sẽ bị đòi lại nhiều;” nghĩa là sẽ phải chịu phán xét nặng hơn. Tình yêu đòi hỏi phải hy sinh đến cùng. Gương mẫu hy sinh chúng ta cần noi theo là Đức Kitô. Ngài đã hy sinh nhập thể, rao giảng, chữa lành, và sẵn sàng chịu đóng đinh trên Thập Giá để chuộc tội cho con người. Chúng ta hãy bắt chước Ngài trong mọi việc chúng ta làm trong cuộc đời này. Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình có. Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(11-10-2024)

CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN

                                   Bổn Phận Quan Trọng Nhất

        Con người bị lẫn lộn nhiều về câu hỏi này vì có quá nhiều bổn phận phải chu toàn trong cuộc sống này như: bổn phận đối với Chúa, Giáo Hội, quốc gia, xã hội, cha mẹ, vợ chồng, con cái, thân nhân và bạn hữu. Bổn phận nào trong những bổn phận này quan trọng nhất và tại sao? Sẽ có những câu trả lời khác nhau tùy thuộc vào sự hiểu biết về đời sống của mỗi người.

        Các bài đọc hôm nay cho con người một câu trả lời rõ ràng và lý do tại sao phải làm như thế. Trong bài đọc thứ nhất, Moses và tất cả những nhà lãnh đạo Do-thái thường xuyên nhắc nhở con cái Israel bổn phận quan trọng nhất của họ là đối với Thiên Chúa, “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.” Trong bài đọc thứ hai, tác giả của Thư Do-thái cho lý do tại sao con người phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, là vì tình yêu vô biên của Ngài cho con người qua sự kiện Ngài cho người con một của Ngài để cứu chuộc và để không ngừng cầu bầu cho con người. Trong Phúc Âm, khi một luật sĩ hỏi Chúa Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, Ngài cho ông hai giới răn, thứ nhất yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự; thứ hai yêu người như chính bản thân ta vậy.

Ai trong chúng ta cũng đều ý thức về hai bổn phận yêu thương hàng dọc và hàng ngang: Bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với tha nhân.  Tin mừng hôm nay ghi nhận lời Đức Giê-su dạy về hai điều răn quan trọng nhất là “mến Chúa hết lòng hết sức và yêu thương tha nhân như yêu mình”. Hai điều răn này tóm lược tòan thể bộ Luật Mô-sê. Tuy nhiên xem ra Đức Giê-su đặt nặng điều răn thương người hơn điều răn mến Chúa như khi Người dạy: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).

     Chính tình yêu đối với anh em là dấu chỉ chắc chắn nhất về lòng yêu mến Chúa như lời Đức Giê-su: “Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thánh Gioan cũng đã khẳng định: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy…Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Yêu thương không phải chỉ bằng lời nói suông, hay bằng thứ tình cảm nhất thời, nhưng bằng việc làm cụ thể như kinh Thương Người dạy: thương xác có bảy mối và thương linh hồn có bảy mối. Thánh Giacôbê đòi tín hữu phải yêu thương cụ thể, vì “Nhờ hành động mà con người nên công chính, chứ không phải nhờ đức tin mà thôi” (Gc 2,24). Bởi vậy, với Chúa Giêsu, yêu thương cụ thể là điều kiện để được vào Nước Trời: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn. Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc …” (Mt 25,35-36).

Lm Joseph Nguyễn Thái.

 (11-3-2024)

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN

YÊU THƯƠNG VÀ CHỮA LÀNH

Thiên Chúa yêu thương con người và mong muốn con người được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi; nhưng nhiều người lại mù quáng chạy theo những tình yêu ảo ảnh của thế gian. Để đưa con người về, Thiên Chúa phải dùng đau khổ. Khi con người phải đương đầu với đau khổ, họ nhận ra họ không thể sống mà không có Thiên Chúa.

Các Bài Đọc hôm nay biểu lộ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người qua những trường hợp khác nhau. Trong Bài Đọc I, khi con cái Israel không chịu nghe lời các ngôn sứ để quay trở về với Thiên Chúa, Ngài để mặc họ cho ngoại bang giày xéo mang họ đi lưu đày. Nhưng tình yêu Thiên Chúa không bao giờ cạn cho con cái Israel, Ngài sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo dân hãy giữ vững niềm trông cậy, vì Ngài sẽ giải thoát và đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc II, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người; vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Jericho, khi anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại để xin Ngài cho anh được thấy.

Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852). Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm. Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau: Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì? Cô đáp: “Chẳng có gì đặc biệt cả!” Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó. Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy!

Chúng ta mù lòa không thấy những bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh ta và trong cuộc đời ta. Chúng ta mù lòa không thấy những cảnh khổ của anh chị  em ta. Chúng ta mù lòa không thấy lỗi lầm khuyết điểm của mình. "Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Ðó có phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người không? Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (10-27-2024)

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN

Ý nghĩa và giá trị của đau khổ

Người đời muốn có uy quyền để cai trị, để được người khác tôn trọng và phục vụ mình. Hậu quả xảy ra là mọi người ghen tị, tranh chấp, và tìm cách tiêu diệt nhau; vì không ai muốn thua người khác. Người môn đệ của Đức Kitô được dạy để trở nên đầy tớ khiêm nhường và phục vụ mọi người. Hậu quả là yêu thương đùm bọc, đoàn kết, và xây dựng cộng đoàn. Nhìn vào hậu quả của cả hai khuynh hướng, một người có thể nhận ra lối sống nào là tốt đẹp và hữu ích cho cá nhân và cộng đoàn hơn?

Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Đức Kitô, mẫu gương khiêm nhường và phục vụ cho con người. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaia tiên báo về Người Tôi Trung của Thiên Chúa: Ngài sẽ bị nghiền nát vì đau khổ để chuộc tội cho muôn người và hoàn tất thánh ý của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái muốn nhắc nhở cho các tín hữu biết noi gương và chạy đến với Đức Kitô mỗi khi chịu đựng đau khổ; vì Ngài đã từng trải qua những đau khổ như con người, nên Ngài biết giúp cho con người vượt qua đau khổ. Trong Phúc Âm, khi hai anh em, Giacôbê và Gioan đến xin với Chúa Giêsu một đặc quyền, là cho hai anh em một người ngồi bên tả và một người ngồi bên hữu trong vương quốc của Thiên Chúa; Đức Kitô trách họ không biết họ đang xin gì. Các môn đệ khác bất bình với hai anh em vì họ cũng không muốn ai hơn họ. Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ: kẻ làm lớn nhất trong Nước Trời là kẻ hiến thân phục vụ người khác.

Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên thấy ghét. Nó nói: Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn. Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói "Hãy lên đây". Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói "Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi". Chiếc đồng hồ nhỏ đáp: "Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu". "Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi". "Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá". Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích: "Ðó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích nhau nữa nhé".

Câu chuyện rất ý nhị: mỗi người có một nhiệm vụ để phục vụ người  khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa. Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con, biết noi gương Chúa Giesu, chấp nhận hy sinh thiệt thòi, để phục vụ cho nhân loại và biết xa tránh thói tham lam quyền hành ích kỷ.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (10-20-2024)

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN

CUỘC SỐNG ĐỜI ĐỜI

Nhiều người biết rất rõ đích điểm của cuộc đời là cuộc sống hạnh phúc muôn đời bên Chúa; nhưng làm thế nào để đạt được đích điểm đó, có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho chỉ cần tin vào Đức Kitô là được cứu rỗi; có người cho chỉ cần đi lễ mỗi tuần, đọc kinh mỗi ngày; có người cho chỉ cần ăn ngay ở lành… Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đến câu hỏi: Phải làm thế nào để đạt được cuộc sống đời đời?

Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan đề cao sự quan trọng của Đức Khôn Ngoan. Theo ông, Đức Khôn Ngoan đáng quý trọng hơn mọi sự trên trần gian này, vì hai lý do: (1) Có Đức Khôn Ngoan là có mọi sự; và (2) Chỉ có Đức Khôn Ngoan tồn tại muôn đời. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái đồng nhất Đức Khôn Ngoan với Lời Chúa, hay Ngôi Lời chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Không như khôn ngoan của thế gian, Lời Chúa luôn sống động, hiệu quả, và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi. Lời Chúa đòi con người phải suy tư, thúc đẩy con người phải hành động, và làm chứng cho con người trước tòa phán xét của Thiên Chúa.

Trong Phúc Âm, khi được người thanh niên hỏi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời, Chúa Giêsu tuyên bố: phải giữ tất cả các điều răn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Điều Chúa Giêsu đòi hỏi anh ở đây không gì khác hơn giới răn thứ nhất: “Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.” Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.”

Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu có, cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người "đàn bà thánh thiện" đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng)… Vậy Chúa lên án những gì? Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của. Thật khó cho người giầu  có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám  hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.

Lạy Chúa, có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm. Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ. Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi. Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (10-13-2024)

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN

HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY

Khi Thiên Chúa truyền cho con người làm điều gì, con người có thể hay có khả năng làm điều đó; vì Ngài không thể truyền cho con người làm điều gì họ không thể làm. Có nhiều lý do khiến con người không làm điều Thiên Chúa truyền: (1) Con người không muốn làm điều Thiên Chúa truyền, mà chỉ muốn làm điều con người muốn, vì nó phù hợp với con người hơn. (2) Con người có khả năng làm; nhưng không chịu cố gắng làm vì lười biếng, sợ khó khăn, sợ gian khổ, hay sợ chết. (3) Có những điều con người chỉ có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.

Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự trung thành của ơn gọi gia đình, điều mà nhiều người cho là không thể thực hiện được. Trong bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế xác nhận ơn gọi hôn nhân nằm trong kế-hoạch của Thiên Chúa cho con người ngay từ đầu.  Trong Bài Đọc II, sức mạnh và ơn thánh giúp con người có thể làm điều Thiên Chúa truyền đến từ Đức Kitô qua việc sống theo lề luật của Chúa, Lời Chúa, và nhờ các Bí-tích. Trong bài Phúc Âm Marcô, khi mấy Biệt-phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có được ly dị vợ không; dù Chúa Giêsu biết Moses cho phép ly dị vì sự cứng lòng của dân chúng, Ngài vẫn xác quyết ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ thuở ban đầu là không được. Lý do: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”

Thực trạng hôn nhân ngày nay, cứ hai đôi thì có một đôi ly dị. Vậy thì có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau suốt đời. Và cũng có những cặp dẫm chân lên đời nhau mà ra đi đau đớn! Có nhiều lý do để trung thành với nhau, và cũng có nhiều lý do dẫn đến ly dị. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn". Phải, người ta thường nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", dù con người có nỗ lực đến đâu cũng không đạt tới kết quả mong muốn nếu không có ơn Chúa trợ giúp vì Ngài đã nói: "Không có Thầy các con không làm được gì", nhưng Ngài cũng nói: "Hãy xin thì sẽ được", tức là phải nỗ lực cầu nguyện nhiều để gia đình được hiệp nhất, tránh được sự đổ vỡ đang rình rập.

Để có được những tâm tình đó, Đức Cha Nguyễn sơn Lâm đã dạy:"Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Đức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.

Lm Joseph Nguyễn Thái    

 (10-6-2024)

CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN

GHEN TỊ VÀ THAM LAM

            Tính phe đảng, ghen tị, và tham lam, làm con người dễ quên đi mục đích và khai trừ những ai không có cùng quan niệm hay không thuộc nhóm của mình. Người tín hữu phải nhớ điều quan trọng hàng đầu là làm cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi; còn cách thức làm sao để thực hiện điều này là tùy vào ơn riêng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Cần tránh thái độ chỉ có người của mình hay cách của mình mới quan trọng. Đừng ghen tị khi người khác được bằng mình hay hơn mình. Vì một người không thể làm hết, và cũng không có sức để chịu đựng tất cả; do đó, Thiên Chúa cần nhiều thợ nhiệt thành để làm việc trong vườn nho của Ngài.

            Các Bài Đọc hôm nay muốn dạy con người phải diệt trừ tính phe đảng, ghen tị, và tham lam. Trong Bài Đọc I, ông Moses ước mong ơn Thánh Thần được ban cho mọi con cái Israel, để họ đừng than phiền, kêu trách Thiên Chúa, và kêu trách ông nữa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê quan niệm của cải trong trời đất là của Thiên Chúa ban cho mọi người; không ai có quyền vơ vét và tích trữ của cải cho mình đến nỗi để người khác phải chịu thiệt thòi và túng thiếu. Trong Bài Phúc Âm, khi Gioan nói với Chúa Giêsu ông ngăn cấm một người đã lấy danh Chúa Giêsu trừ quỉ, vì người đó không ở trong nhóm môn đệ của Chúa. Ngài trả lời ông: đừng ngăn cản họ vì “ai không chống đối chúng ta là thuộc về chúng ta.”

     Cần loại trừ tính phe đảng, độc tài. Để một người trừ được quỉ, họ phải có một đức tin vững mạnh nơi Chúa Giêsu và phải nhân danh Ngài mà nói, thì mới trừ được. Nếu một người không có đức tin, và không nhân danh Chúa, họ không bao giờ họ có thể trừ được quỉ. Đức tin có được hay mất đi phải có thời gian lâu dài; chứ không một sớm một chiều mà có hay mất được. Vì thế, khi họ trừ được quỉ là họ đã có đức tin vào Thiên Chúa, tại sao cần phải ngăn cấm họ. Hơn nữa, mục đích của Chúa Giêsu khi chọn các môn đệ là để huấn luyện các ông loan truyền Tin Mừng, chứ không chú trọng đến danh nghĩa và quyền lợi của cá nhân hay của nhóm. Ngài ban cho các ông quyền trừ quỉ để khơi dậy niềm tin, chứ không phải là đặc quyền để bảo vệ. Tính phe đảng làm con người không còn biết chú trọng đến mục đích, nhưng chú trọng đến tiếng tăm, quyền lợi, và dễ dàng khai trừ người khác.

             Bác ái và gương sáng là hai cách hiệu quả để rao giảng Tin Mừng. Đạo của Chúa Giêsu là đạo bác ái yêu thương. Người môn đệ của Chúa không thể mến Chúa mà không yêu người. Tiêu chuẩn Chúa dùng để phán xét người môn đệ là đức bác ái (Mt 25). Nếu ai làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa, người đó sẽ được hưởng cuộc sống đời đời. Đồng thời phải làm gương lành cho người khác. Nếu đã không làm điều tốt cho tha nhân, họ còn ngăn cản tha nhân đến với Chúa bằng gương xấu họ làm, chắc chắn họ phải sống xa Thiên Chúa như Lời Chúa dạy hôm nay: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9,42).

     Lm Joseph Nguyễn Thái        

 (9-29-2024)

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN

Sống theo sự khôn ngoan của Chúa

             Có nhiều người muốn biết nhưng không chịu học; muốn được khen ngợi nhưng chẳng có gì để được khen ngợi; muốn được người khác yêu thương, thông cảm; nhưng chẳng bao giờ chịu yêu thương và thông cảm người khác; muốn làm lớn nhưng chẳng muốn làm gì cả. Những người này khi không được những điều mình muốn, họ tìm cách phá đám cho bỏ ghét, cho đỡ tức. Lẽ ra họ phải dùng trí khôn để tìm hiểu, xây dựng; họ lại dùng vũ lực để phá hủy, để tiêu diệt.

            Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết thay đổi lối sống của thế gian để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thay vì phải thay đổi cho phù hợp với lối sống của Thiên Chúa, kẻ gian ác muốn thử thách Thiên Chúa bằng cách bách hại người công chính. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê dạy các tín hữu: nếu muốn có bình an đích thực, họ phải từ bỏ lối sống theo tham vọng trần tục, để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Còn Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần :
    1/ Đức Giêsu lần thứ hai loan báo cuộc Thương khó của Ngài cho các môn đệ. Nhưng Nhóm Mười Hai vẫn không hiểu gì hơn đám đông dân chúng về các điều kiện để đạt tới Nước Trời. Các ông vẫn quan niệm rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa trần gian mang mầu sắc chính trị. Các ông không hiểu rằng Ngài là Đấng Kitô đau khổ, đến để phục vụ và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, trên đường đi các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước Ngài sắp thành lập.

     2/ Về đến nhà, Đức Giêsu ôn tồn nói cho các ông thái độ khôn ngoan phải có trong Nước Ngài sắp thành lập: Phải biết phục vụ, đừng ai để ý đến địa vị lớn hay nhỏ để ganh đua. Người có chức vụ càng cao càng phải hạ mình xuống phục vụ như người đầy tớ. Phải tiếp đón mọi người, không phân biết già trẻ, sang hèn với tinh thần quảng đại.

     Thánh Phanxicô Salêsiô là một giám mục nổi tiếng về lòng khoan dung và đức khiêm nhường phục vụ. Ngày nọ sau giờ làm việc, người giúp việc của Tòa Giám Mục vốn có tật thích ăn nhậu say xỉn đã leo rào ra ngoài quán cóc gần đường đó ăn nhậu với chúng bạn và đã bất cẩn uống rượu quá chén. Khi mò về tới tòa giám mục thì trời đã khuya. Do quá say, anh quên rằng phải leo rào để về nơi ở, nên đã nằm đại ra trước cổng tòa giám mục ngủ ngáy khò khò. Bấy giờ thánh Phanxicô Salêsiô vẫn còn thức đêm làm việc, nghe thấy tiếng ngáy liền đi ra mở cổng và khi nhận ra người giúp việc của ngài đang ngủ say, liền cõng anh ta vào phòng riêng và đặt nằm trên giường của mình. Còn ngài thì tạm nghỉ trên chiếc ghế salon trong phòng khách.
Sáng ngày thức dậy, anh giúp việc rất ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên giường của đức giám mục. Anh nhớ ra bữa nhậu say xỉn tối hôm trước, liền vội chạy đến quì trước mặt đức giám mục thú tội để xin tha tội. Và cũng từ ngày đó anh giúp việc đã chừa được tật ưa ăn nhậu say xỉn.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-22-2024)

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN

QUA ĐAU KHỔ TỚI VINH QUANG

Cô X đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, mẹ cô đã qua đời để lại cha cô và 3 người em. Cô phải thay mẹ chăm sóc các em; nhất là người em gái còn trẻ mắc chứng bệnh “lupus” hiểm nghèo. Khi gặp một linh mục công giáo đến an ủi, cô rơm rớm nước mắt và thắc mắc: Tại sao một Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự và thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ như thế?

  Các Bài Đọc hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của cô X: mặc dù Thiên Chúa có uy quyền làm cho mẹ cô X sống và chữa lành em cô khỏi bệnh; nhưng Ngài chọn con đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô X được hưởng ơn cứu độ muôn đời. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah tiên báo những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi Trung của Thiên Chúa: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ; nhưng sẽ vượt qua tất cả vì một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa. Chính vì những đau khổ Ngài chịu, mà ơn cứu độ được dâng tặng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: đức tin của họ vào Thiên Chúa phải được bày tỏ qua hành động. Nếu họ yêu thương Thiên Chúa, họ cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động cụ thể. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. 

Trong Bài Phúc Âm, sau lời tuyên xưng của Phero: “Thầy là Đấng Kito”, Đấng Kito có nghĩa là Đấng được xức dầu hay Đấng Thiên Sai mà Cựu Ước loan báo đến để giải thoát con người. Trong Marcô, Đức Giêsu thường cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. Lý do, Ngài muốn họ hiểu biết đúng về Đấng Thiên Sai: Ngài không dùng uy quyền, nhưng chịu đau khổ để giải phóng con người. Chúa Giesu đã khiển trách Phero là “Satan” vì Phero ngăn cản Chúa đi theo con đường qua đau khổ đến vinh quang.

1-Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cứu độ con người: Dĩ nhiên, Thiên Chúa có uy quyền để cứu độ con người theo cách thức con người mong muốn; nhưng đó không phải là cách thức Ngài mong muốn, mà là qua con đường đau khổ. Nhiều người chất vấn tại sao Thiên Chúa làm như thế? Câu trả lời trước tiên là con người không khôn ngoan hơn Thiên Chúa: khi Thiên Chúa chọn cách nào, đó là cách thức tốt đẹp nhất cho con người. Hơn nữa, theo kinh nghiệm, con người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa khi họ bị đau khổ; còn khi sung sướng, hạnh phúc, rất ít người nhớ tới Thiên Chúa. Sau cùng, con người yêu thương sâu xa những ai đã hiến mình vì họ; mỗi lần nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận tình thương vô biên Thiên Chúa dành cho họ.

        2-Con người trốn tránh đau khổ: Phản ứng của Phêrô cũng giống như phản ứng của cô X ở trên, và cũng giống như truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền. Bài học cho chúng ta là con đường đau khổ là con đường khôn ngoan Thiên Chúa dùng để cứu độ con người. Ngài muốn Con Một Ngài chịu đau khổ để cứu chuộc con người và Ngài cũng muốn dùng đau khổ để con người nhận ra: họ không thể sống thiếu Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-15-2024)

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN

THIÊN CHÚA GIẢI THOÁT BỆNH TẬT HỒN XÁC

Con người bị bao vây bởi biết bao những nguy hiểm về phần hồn cũng như về phần xác. Về phần hồn, những chước cám dỗ của ma quỉ và thế gian làm con người xa lìa Thiên Chúa và sống theo những dục vọng của xác thịt. Về phần xác, con người phải đương đầu với các thiên tai bên ngoài như hạn hán, bão lụt, núi lửa, sóng gió, động đất, chiến tranh; thêm vào đó, các bệnh phần xác như mù, điếc, câm què. Khi phải đương đầu với những nguy hiểm này, con người dễ rơi vào hai thái độ:

         (1) Từ chối Thiên Chúa: Tại sao một Thiên Chúa nhân lành lại để những đau khổ như thế xảy ra cho con người? Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ không tin Thiên Chúa; và tìm cách giải quyết theo cách thức trần gian.

         (2) Nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc đời: Thiên Chúa để đau khổ xảy ra để con người nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời họ và biết yêu thương tha nhân hơn. Tục ngữ Việt-nam có câu: “có đau mắt mới biết thương người mù;” “có mù mới biết sự quí trọng của ánh sáng.” 

          Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào những nguy hiểm con người phải đương đầu với, và cách thức để được chữa lành. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết với dân Do-thái khi họ sống trong cảnh lưu đày: Thiên Chúa chúng ta có thể làm được tất cả; vì thế, đừng sợ hãi và hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ đến và chữa lành tất cả. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu lên hai tội phần hồn cần được chữa trị là thành kiến và đối xử thiên vị. Đức Kitô là người giải phóng và chữa lành con người khỏi hai bệnh phần hồn này. Trong Phúc Âm, khi người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa câm vừa điếc để xin Chúa Giêsu đặt tay trên anh, Ngài đã dẫn anh ta ra một nơi và chữa anh khỏi bệnh.

Hai bệnh điếc và ngọng thường đi đôi với nhau. Để tránh cho anh khỏi bị xấu hổ trước đám đông, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha,” nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Tiên tri Isaiah trong Bài Đọc I đã nói trước những gì sẽ xảy ra khi Đấng Thiên Sai tới: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” Đọc Tin Mừng, tất cả những điều này đã được làm nhiều lần bởi Chúa Giêsu như những lời tiên tri Isaiah nói về Ngài khi Ngài về Nazareth và giảng dạy trong hội đường (Lk 4:16-21). Chỉ có Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới có thể giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác. Không ai có thể thay thế vai trò của Ngài trong Kế Hoạch Cứu Độ. Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên những người bảo vệ sự sống, và chữa lành những vết thương phần hồn cũng như phần xác cho con người; nhất là giới thiệu họ đến với Đức Kitô, để họ cũng tin vào Ngài và được chữa lành. 

Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-8-2024)

CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN

Thờ phượng Thiên Chúa đích thực

          Nhiều người giới hạn đạo vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ: như đi tham dự Thánh Lễ mỗi tuần; hay chỉ chịu Phép Rửa để có danh hiệu Kitô hữu; hay chỉ thi hành một số điều bên ngoài mà Lề Luật đòi buộc. Tôn giáo chân chính đòi con người phải sống kết hiệp với Thiên Chúa khi làm việc thờ phượng cũng như trong đời sống hàng ngày. Các tín hữu phải tuân giữ tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa, và phải sống đức bác ái cách trọn hảo bằng việc giúp đỡ tha nhân.

            Mỗi Bài Đọc hôm nay tập trung trong một khía cạnh của việc thực hành tôn giáo. Trong Bài Đọc I, ông Moses đưa ra những lý do để khuyên con cái Israel phải tuân giữ trọn vẹn Thập Giới của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Thiên Chúa dạy, vì thi hành phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm để minh chứng đức tin sống động của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo việc thực hành tôn giáo bằng những lễ nghi giả hình bên ngoài của các kinh sư và biệt phái, như giữ các lề luật về việc thanh sạch bên ngoài; mà quên đi việc thanh tẩy thực sự trong tâm hồn. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu muốn dạy con người 3 điều quan trọng:

            (1) Đừng thờ Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài: vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn con người. Họ có thể đánh lừa người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa.

            (2) Đừng vịn vào truyền thống để hủy bỏ Lề Luật của Thiên Chúa. Ngài không đến để phá hủy truyền thống; nhưng Ngài muốn dạy cho họ biết phải đặt giới luật của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới luật của Thiên Chúa và luật lệ hay truyền thống của con người, họ phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Ví dụ: luật phá thai hay án tử hình.

            (3) Thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn thanh tẩy đồ dùng bên ngoài. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”

            Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là con người phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Sau đoạn văn này Mác-cô tường thuật các hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế” của Do Thái giáo để thực hiện cuộc cách mạng đưa việc thờ phượng Thiên Chúa từ trong tâm hồn với việc nội tâm hóa luật luân lý sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-1-2024)

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN

QUYẾT ĐỊNH KHÔN NGOAN

     Con người phải thường xuyên làm rất nhiều quyết định trong cuộc đời: có những quyết định không quan trọng cho lắm như ăn gì, uống gì, mặc gì; nhưng cũng có những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời như chọn nghề nghiệp, chọn người để kết hôn, chọn tôn giáo để tin… Khi con người làm quyết định, con người phải chịu trách nhiệm và lãnh nhận mọi hậu quả sẽ xảy ra; vì thế, con người phải biết quyết định cách khôn ngoan. Để biết quyết định cách khôn ngoan, con người cần học hỏi và suy xét để biết trước những hậu quả có thể xảy ra.

        Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người phải quyết định cách khôn ngoan. Trong Bài Đọc I, Thủ Lãnh Joshua triệu tập đại hội tại Shechem, để buộc con cái Israel phải biết quyết định dứt khoát: thờ phượng một Thiên Chúa hay thờ phượng các thần ngoại bang. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra hình ảnh lý tưởng của sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để làm gương cho vợ chồng phải trung thành với nhau suốt đời. Để có thể trung thành suốt đời, vợ cần phải vâng lời chồng, và chồng cần phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể của mình. Trong Phúc Âm, sau khi đã làm hai phép lạ cả thể, dạy dỗ và mặc khải cho dân chúng về mầu nhiệm Thánh Thể, có hai phản ứng trái ngược nhau xảy ra:

     Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được “ăn thịt và uống máu” Ngài. Và thật sự các lời này không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm,  nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.

         Trước việc các môn đệ rút lui không theo Người nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội của Giuda, Đức Giê-su buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa , anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”. Nhân danh các môn đệ, Phê-rô đã tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” Chỉ trong ánh sáng của đức tin, người ta mới có thể nhận biết những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của phàm nhân. Mặc khải Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải này vẫn sẽ là “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại. Bí-tích Thánh Thể vô cùng quan trọng cho cuộc đời, nếu hiểu sai về Bí-tích này sẽ ngăn cản chúng ta không đạt được cuộc sống đời sau như Chúa nói: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. 

     Lm Joseph Nguyễn Thái 

(8-25-2024)

CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN

TRƯỜNG SINH BẤT TỬ

     Con người khôn ngoan không bao giờ muốn chết, nhưng muốn được sống “trường sinh bất tử;” nhưng cái chết là một thực tại và nó luôn đe dọa mạng sống con người. Tại sao khao khát trường sinh có thể nói là một bản năng của con người mà cái chết lại cướp đi bản năng đó. Con người có hy vọng gì để đạt được nỗi khao khát trường sinh không? Hy vọng lớn lao và may mắn cho con người: Niềm tin và đạo lý Công Giáo dạy: (1) Nỗi khao khát trường sinh là một khao khát có thật vì Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, muốn con người được trường sinh bất tử. (2) Vì tội lỗi mà con người phải chết; nhưng Thiên Chúa đã có sẵn Kế Hoạch Cứu Độ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết.

        Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh nỗi ước ao được sống trường sinh của con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Châm Ngôn nhân cách hóa sự khôn ngoan và nêu lên một điều kiện để con người được sống: phải “ăn bánh và uống rượu” do khôn ngoan làm ra. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephêsô phải biết sống như những người khôn ngoan bằng cách theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho con người bí quyết để được trường sinh bất tử: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Vì trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu mang hai bản tính: Thiên Chúa và nhân loại. Bản tính Thiên Chúa không chết mà là trường sinh bất tử. Bản tính nhân loại chết khi Chúa Giesu tắt thở trên Thánh Giá, nhưng được phục sinh ngay vì bản tính Thiên Chúa.  Người rước Mình và Máu Đức Kitô cũng mang hai sự sống thể lý và thần linh. Hai sự sống này không tiêu diệt nhau nhưng bổ xung cho nhau.

        Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta trường sinh bất tử. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài, bánh hằng sống.

        Ăn thịt Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(8-18-2024)

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN

BÁNH THẦN LINH

     Đời sống con người có ít nhất hai chiều kích: thể lý và tinh thần. Khi thân xác mệt mỏi và đói khát, con người không còn sức lực để làm việc; vì thế họ cần ăn uống và nghỉ ngơi để lấy sức. Khi tinh thần chán nản đến độ tuyệt vọng, con người mất hết ý chí để sống, họ chỉ muốn chết. Làm sao con người có thể phục hồi tinh thần để tiếp tục bước tới?

     Các bài đọc hôm nay chú trọng đặc biệt tới lương thực thần linh, những gì có thể giúp con người sống dồi dào và sống muôn đời. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elia cảm thấy chán nản đến tuyệt vọng; vì sau khi đã cố gắng rao giảng và làm nhiều phép lạ; vua quan và con cái Israel vẫn quay lưng lại sự thật, lại còn nghe lời hoàng hậu Ideven để lấy mạng sống của ông. Thiên Chúa sai thiên thần mang bánh và nước tới để giúp ông phục hồi nghị lực. Sau khi dùng lương thực hai lần, ông chỗi dậy và đi bộ một mạch 40 ngày đêm tới núi Horeb, để gặp gỡ Thiên Chúa. Trong bài đọc II, thánh Phaolo khuyên nhủ các tín hữu Epheso hãy loại trừ lối sống theo xác thịt và mở lòng lãnh nhận lối sống theo Thánh Thần, mà Đức Kito đã xin Chúa Cha gởi tới tâm hồn các tín hữu.

             Trong bài Phúc Âm, khi Chúa Giesu tuyên bố Ngài là bánh từ trời xuống để đem lại sự sống trường sinh cho nhân loại; người Do Thái xầm xì chống đối, không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng: làm sao ông này có thể  là bánh hằng sống từ trời xuống được? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ. Tại sao ông ta dám tuyện bố như thế? Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa.  Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.

     Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ Mình Thánh Chúa thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình. Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn Mình Thánh Chúa sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay: “Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời”.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(8-11-2024)

CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN

LƯƠNG THỰC CHÚA BAN

     Cám dỗ về bánh ăn luôn là một diệu kế ma quỉ dùng để cám dỗ con người. Chúng đã từng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, khi Ngài ăn chay 40 ngày trong sa mạc: “Hãy biến những hòn đá thành của ăn.” Chúa trả lời: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúa muốn con người nhận ra chân lý: “Bánh cần thiết, nhưng không phải tất cả.” Nếu con người chú trọng đến bánh quá nhiều, con người sẽ phát sinh nhiều bệnh: cả phần hồn lẫn phần xác.

        Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật hai thực tại: lương thực mau hư nát và lương thực trường tồn. Trong Bài Đọc I, con cái Israel kêu trách Thiên Chúa vì họ bị đói và khát trong sa mạc. Thiên Chúa cho họ có manna từ trời rơi xuống ban sáng, và có thịt chim cút lúc ban chiều. Họ có thể ăn uống thỏa thuê; nhưng không được họ tích trữ. Ngài truyền chỉ lấy lương thực đủ cho ngày đó; nếu tham lam tích trữ, manna sẽ hư hại hôm sau.

     Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô phân biệt hai lối sống: Dân Ngoại sống theo tư tưởng phù phiếm: họ chỉ biết ra công làm việc để có của ăn hư nát và hưởng thụ; ngược lại, các tín hữu phải sống theo Thánh Thần và tuân theo những lời chỉ dạy của Đức Kitô, để có lương thực trường tồn.

          Trong Phúc Âm, dân chúng đi kiếm Đức Kitô sau khi đã được Ngài làm phép lạ cho ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu biết rõ họ tìm kiếm Ngài chỉ vì lý do đó; nên Ngài khuyên họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh.” Lương thực mau hư nát ai cũng có thể hiểu được: ngoài đồ ăn thức uống, còn có thể hiểu là những giá trị chóng qua của thế gian như: tiền bạc, của cải, thú vui, danh vọng, chức quyền … Về lương thực mang lại giá trị vĩnh cửu, chúng ta phải học hỏi hết chương 6 của Gioan trong ba tuần kế tiếp. Một cách tổng quát, Chúa Giêsu muốn đề cập đến hai điều căn bản là Lời Chúa và Mình thánh Chúa.

     Hai của ăn thần linh này, mang lại cho các tín hữu sự sống muôn đời, như thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu : “Chỉ có Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), hay như lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời… Đây là Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Mỗi ngày chúng ta nên tham dự thánh lễ để đón nhận được hai thứ lương thực thiêng liêng của Đức Giêsu ban cho là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, để có sự sống muôn đời.

     Lạy Chúa, của cải vật chất và cơm ăn áo mặc là những nhu cầu không thể thiếu của thân xác con người. Ma quỷ thường cám dỗ lôi kéo chúng con tìm kiếm chúng thay vì phải tìm kiếm Chúa mới thực là lẽ sống cuộc đời của con. Xin cho chúng con đừng quá mải mê tìm kiếm những của cải vật chất đến nỗi chẳng còn thiết tha với việc cầu nguyện, dự lễ và tuân giữ các giới răn. Xin Chúa thương tha thứ tội lỗi và bù đắp những thiếu sót của chúng con.

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(8-4-2024)

CHÚA NHẬT 17 TN

Quyền năng Thiên Chúa và sự chia sẻ của con người.

            Ca dao Việt-nam có câu: “Ở đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.” Tư tưởng này rất gần với quan niệm của người Công Giáo: Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất và ban cho mọi người cùng hưởng. Ngài muốn con người san sẻ cho nhau để đừng có cảnh người quá giàu trong khi người khác không có của ăn. Để làm được điều này, ca dao Việt-nam đòi con người phải có nhân đức anh hùng. Đó là tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và dám chia sẻ cho tha nhân những gì mình có.

            Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai tư tưởng này. Trong Bài Đọc I, tiên tri Elisha truyền tiểu đồng phát quà tặng dân chúng mang đến cho ông, mặc dù chẳng thấm vào đâu; nhưng Đức Chúa đã cho toàn dân ăn no. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu bảo vệ sự hiệp nhất mà họ đã được kêu gọi bằng cách ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, và bác ái. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi năm ngàn người đàn ông ăn và còn dư thừa 12 thúng, từ năm chiếc bánh và hai con cá.

         1/ Con người phải tin nơi quyền năng của Thiên Chúa: trong biến cố Vượt Qua dân Do-thái nhớ lại uy quyền lớn lao của Thiên Chúa đã mang dân vượt Biển Đỏ an toàn; trong khi quân đội của vua Pharao bị nhận chìm giữa lòng đại dương. Nếu một Thiên Chúa có quyền năng đưa dân Do-thái vượt qua Biển Đỏ, Ngài cũng có thể làm cho dân có bánh ăn no nê trong sa mạc, điều bị coi là không thể đối với con người. Nếu Chúa Giêsu có thể làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” để nuôi năm ngàn người đàn ông ăn no nê, Ngài cũng có thể hiến thân mình để trở nên của ăn nuôi dân hàng ngày. Đây là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể.

         2/Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người: Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng Ngài muốn con người biểu lộ niềm tin giống như em bé sẵn sàng đưa cho Chúa 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá để chia sẻ với mọi người. Khi linh mục dâng bánh và rượu lên cho Thiên Chúa, người linh mục cũng dâng những đau khổ của chính mình và của dân chúng, cộng với lễ hy sinh đau khổ của Đức Kitô. Tất cả những điều này có sức mạnh để Thiên Chúa chấp nhận và sinh ích cho con người.

         Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những khó khăn và bất hạnh của tha nhân. Phần đóng góp của chúng con có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người đau khổ, một ly nước lã hay một chén cơm cho người đang đói khát; một manh áo cũ cho người không có áo che thân; một lời động viên an ủi cho người đang bị hiểu lầm và đối xử bất công; một sự khoan dung tha thứ đối với những kẻ đang để tâm thù ghét làm hại chúng con... Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm vui lòng một người, mỗi ngày làm ít nhất một việc thiện…, để trở thành tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” .

Lm Joseph Nguyễn Thái

(7-28-2024)

CHÚA NHẬT 16 TN

HY VỌNG TRONG THẤT VỌNG

            Trong cuộc đời, có những lúc con người cảm thấy lo âu, sợ hãi, chán nản đến tuyệt vọng, vì phải đương đầu với quá nhiều vấn đề: căng thẳng, chia rẽ, hận thù, bất an … Thiên Chúa muốn con người phải tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Ngài, và Đức Kitô là nguồn hy vọng của mọi người, là giải pháp của mọi vấn nạn của cuộc đời. Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: chỗ nào có lo âu, thất vọng, chỗ đó có hy vọng và giải quyết tuyệt vời của Thiên Chúa.

     Trong Bài Đọc I, tiên tri Gieremiah tường thuật nguy hiểm của các chủ chăn vô trách nhiệm làm chiên lạc bầy và niềm hy vọng có được Người Mục Tử Nhân Lành sẽ đến chăm sóc và quy tụ chiên về. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô tường thuật sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, giữa Do-thái và Dân Ngoại; và niềm hy vọng Thánh Giá sẽ hòa giải những mối xa cách thù địch này. Trong Phúc Âm, các tông đồ làm việc quá tải mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu săn sóc đoàn chiên. Chúa Giêsu bảo các ông hãy lui vào trong nghỉ ngơi để chính Ngài dạy dỗ và săn sóc dân chúng, để Ngài giải quyết  khi có sự căng thẳng nguy hiểm giữa chủ chăn và đòan chiên:   1-Quá tải của sứ vụ tông đồ: vì quá đông dân chúng, các tông đồ làm việc “cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa.” Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, làm sao các tông-đồ có thể đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng? Làm sao các ông có thể thăng bằng giữa đời sống cá nhân với mục vụ tông đồ?

     2-Chiên vất vưởng không người chăn: “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.” Làm sao để có đủ mục tử chăm sóc cho dân khi càng ngày càng ít người đi tu? Xã hội càng tiến bộ, đời sống luân lý và gia đình càng sa sút. Làm sao kiếm được các thợ rành nghề để săn sóc dân chúng?

     Giải pháp là chính Chúa Giêsu là niềm hy vọng giải quyết cho cả hai bên, các mục tử và đoàn chiên:

     1-Người tông-đồ phải có thời giờ nghỉ ngơi với Đức Kitô: Chúa Giêsu nhận ra sự bận rộn trong công tác mục vụ của các tông-đồ. Để tránh cho các ông nguy cơ bị “làm việc quá độ,” chính Ngài đi tìm chỗ nghỉ cho các ông.

     2-Người dạy dỗ họ nhiều điều: Không phải chỉ có các mục tử là người chủ chăn, Đức Kitô là Mục Tử Tốt Lành và trên hết. Chính Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, và bảo vệ dân chúng, như trình thuật hôm nay: “Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”

     Bài học áp dụng cho chúng ta hôm nay là Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành: tất cả chúng ta hãy học hỏi, đặt trọn niềm tin tưởng,  và niềm hy vọng nơi Ngài. Cha mẹ hay cha xứ đều là các mục tử chăm sóc những chiên của Thiên Chúa. Trên hết mọi sự, người mục tử phải dạy cho dân biết và quí mến Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đều là các chiên của Thiên Chúa. Chúng ta phải học biết về Đức Kitô và cầu nguyện cho các mục tử của mình. Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta đang cầu nguyện cho chính chúng ta. 

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(7-21-2024)

CHÚA NHẬT 15 THƯờNG NIÊN

Ơn gọi của con người

Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó, con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.

         Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác, có 2 điều  quan trọng khi rao giảng:

            (1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”

            Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.

            (2) Mục tiêu của việc rao giảng là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” Khi người môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra tình yêu Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này, để họ ăn năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải trí, làm cho con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không phải là lúc để người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình. Và các quyền trừ quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng. Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế việc rao giảng Tin Mừng.

            Áp dụng trong cuộc sống: tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi người.

            Lm Joseph Nguyễn Thái

(7-14-2024)

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN

Những ngăn cản không nhìn ra sự thật.

Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.

Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào Chúa.  Phải, Đức Kitô đã chuẩn bị cho người đồng hương những yếu tố quan trọng để họ tin vào Ngài.

1-Ngài cho họ cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở về quê quán, đến với họ, giảng dạy trong hội đường của họ.

2-Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt lên: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?”

3-Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”

Nhưng người đồng hương đã không nhận ra Đức Kitô! Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải nhận xét và đánh giá vào chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria… sao? Chị em của ông… lối xóm với chúng ta sao?” Một ví dụ cụ thể là, sau 1975,  chúng ta thường nói khôi hài: “học tài thi lý lịch.” Thay vì chấm điểm thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình “tư sản mại bản;” họ sẽ bị đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.

Áp dụng bài học này, chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của mình. Khi phải phán đoán, hãy nhìn vào biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì đến biến cố đó. 

Lm Joseph Nguyễn Thái

(7-7-2024)

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN

QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA

Theo Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Ngài mong muốn cho mọi loài tồn tại; nhưng con người luôn phải đương đầu với đủ loại đau khổ và cái chết. Câu hỏi được đặt ra: Đâu là nguyên nhân của đau khổ và cái chết? Sách Sáng Thế tường thuật biến cố cám dỗ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì con người lạm dụng quyền tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa và nghe lời quỷ dữ, nên tội lỗi và sự chết đã đột nhập vào thế gian và tác hại trên con người.

        Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh ý hướng và quyền năng của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và quan phòng vũ trụ. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành và tiền định cho muôn loài được trường tồn; nhưng quỉ dữ cám dỗ con người và là nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Corintô giúp đỡ Giáo Hội tại Jerusalem để duy trì sự sống trong trận đói đang xảy ra tại đây. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có toàn quyền trên đau khổ và sự chết qua việc chữa lành người phụ nữ bị loạn huyết và cho con gái ông Jairus sống lại. 

          Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: ”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.

         Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.

Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Phải, cuộc đời chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(6-30-2024)

CHÚA NHẬT 12 TN

UY QUYỀN CỦA THIÊN CHÚA

Con người đã tiến bộ rất nhanh vế các nghành hàng không (máy bay, phi thuyền, vệ tinh nhân tạo), hàng hải (tàu ngầm, chiến hạm, thương thuyền, du thuyền), đường bộ (xe hơi, điện tử …); nhưng khi phải đương đầu với núi lửa, động đất, bão táp, hay sóng gió: con người phải bó tay đầu hàng. Dù con người biết sáng chế ra những dụng cụ để biết trước khi nào các thiên tai xảy ra và cường độ mạnh thế nào; nhưng con người vẫn không tìm ra cách ngăn cản để những thiên tai đừng xảy ra.

         Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng uy quyền của Thiên Chúa trên gió bão và biển cả. Trong Bài Đọc I, ông Gióp trăn trở với câu hỏi tại sao người lành như ông phải chịu đau khổ, nên đã muốn có được câu trả lời từ Thiên Chúa. Để trả lời ông, Thiên Chúa muốn ông suy nghĩ về uy quyền Thiên Chúa trên gió bão và biển cả. Đây mới chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ dẫn chứng uy quyền về sự quan phòng của Thiên Chúa mà trí óc con người không sao hiêu được. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô cho chúng ta một điều vĩ đại con người không thể hiểu được là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua Đức Kitô. Tình yêu này có sức biến đổi con người thành những tạo vật mới để có thể đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa mà sức riêng con người không thể đáp ứng. Trong Phúc Âm, Các môn đệ kinh ngạc đến độ sững sờ, vì họ không thể nào ngờ chỉ một lời truyền của Chúa Giêsu mà trận cuồng phong dữ dội của biển cả phải im lặng như tờ. Chúa Giêsu nhắc nhở cho họ biết: họ cần có một đức tin vững mạnh trong những cơn phong ba bão táp như vậy.

Khi con người phải đương đầu với sợ hãi, sóng gió, và lo âu của biển đời: Rất nhiều tác giả đã ví cuộc đời con người như chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả, và sóng gió bão táp như những nghịch cảnh mà con người phải đương đầu với như: chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, đói khát, chia ly, bắt bớ, hiểu lầm. Làm sao con người có sức mạnh để đương đầu với những phong ba bão táp của biển đời?

Trước tiên chúng ta cần có một thái độ tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì Ngài đã từng căn dặn các môn đệ: “Can đảm lên, đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian.” Không có một quyền lực nào của ma quỉ hay của thế gian có thể chiến thắng nổi quyền lực của Thiên Chúa. Thứ đến, chúng ta phải trông cậy hoàn toàn vào sự yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Ngài biết tất cả những gì chúng ta đang quan tâm, lo lắng; và như người Cha, Ngài sẽ lo liệu và ban những ơn cần thiết cho chúng ta, cho gia đình, và cho những người chúng ta cầu nguyện cho. Chỉ có một điều chúng ta cần làm là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu thương tha nhân như yêu chính mình. Phần còn lại, Chúa sẽ lo liệu như thánh vịnh đã nói:   “Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng  Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.  Họ vui mừng vì trời yên bể lặn. Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.”  (Tv 107, 29-30)

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(6-23-2024)

CHÚA NHẬT 11 TN

NGƯỜI GIEO GIỐNG

     Năm 1960, gia đình tôi ở Sông Bé, tỉnh Đồng Nai. Đằng trước nhà, có một cây cổ thụ rất lớn. Bóng mát của nó như chiếc dù che nắng mưa cho tôi chơi suốt cả ngày. Qua một cơn bão, cây cổ thụ bị bật gốc, thế là phải chặt đi, tôi chơ vơ giữa trời. Sau này khi lớn lên, lúc bố tôi mất, tôi nhớ lại cây cổ thụ ngày xưa chính là hình ảnh của ông, và cảm giác bơ vơ giữa chợ đời thật thấm thía như tục ngữ đã nói: “Con có cha như nhà có nóc. Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.” Mất cha, tôi thiếu người định hướng cho đời mình!

     Hôm nay cả nước Hoa Kỳ Mừng Ngày Của Cha – Father’s Day. Ông David Blankenhorn, một người tiên phong kêu gọi xây dựng lại nền tảng đạo đức tại Hoa Kỳ, đưa ra lời nhận định như sau: “Tình trạng thiếu vắng người cha trong gia đình là một khuynh hướng lan tràn nguy hại nhất của thời đại chúng ta. Nó là nguyên nhân chính, dẫn đến sự sa sút và tình trạng tồi tệ của thanh thiếu niên ngày nay. Nó cũng là động cơ đưa đến những vấn nạn xã hội khẩn trương nhất, từ phạm pháp cho đến nạn mang thai dưới tuổi vị thành niên, từ lạm dụng tình dục trên trẻ con cho đến những bạo hành trên người phụ nữ trong gia đình”. Thật vậy, thống kê cho thấy: 85% trẻ em không tự chủ trong hành vi, xuất thân từ các gia đình không có cha; 71% trẻ em bỏ học đến từ gia đình không có cha; 75% thiếu niên trong các trung tâm cai nghiện đến từ gia đình không có cha; 70% tù phạm thiếu niên đến từ gia đình không có cha; 85% thanh niên trong tù đến từ gia đình không có sự hiện diện của người cha; 80% tội nhân đã hiếp dâm để trút đổ lòng căm thù, đến từ các gia đình không có tình thương của cha; 90% trẻ em lang thang, vô gia cư, vô nghề nghiệp là những đứa trẻ không có cha. Dựa trên thống kê này, người ta đưa ra so sánh giữa trẻ em có cha bên cạnh và không có cha như sau: trẻ em không cha có khuynh hướng mất tự chủ gấp 20 lần, bỏ học gấp 9 lần, khuynh hướng sử dụng chất kích thích gấp 10 lần, khuynh hướng bị vào tù gấp 20 lần, khuynh hướng hiếp dâm gấp 10 lần, khuynh hướng trốn nhà ra đi gấp tới 32 lần.

     Có sự trùng hợp ý nghĩa giữa nội dung của dụ ngôn Người Gieo Giống (Mc 4:26-34) và Ngày của Cha. Người cha chính là người gieo giống có bổn phận phải gieo những hạt giống của sự sống, đức tin, đạo đức, bác ái, yêu thương và Tin Mừng hy vọng vào trong lòng của con cái mình. Người gieo giống gương mẫu là Đức Giêsu Kitô. Ngài là Người đã gieo hạt giống Tin Mừng Nước Trời vào trong thế gian này rồi, thì chính Ngài cũng phải chờ đợi trong kiên nhẫn, khiêm nhường, và hy vọng. Đó là những đặc tính rất cần thiết cho các nhà giáo dục, các thầy cô giáo, các vị thừa sai, và các bậc cha mẹ. Chúng ta phải học sự kiên nhẫn từ việc quan sát thiên nhiên. Mọi sự vật phải có thời gian để trưởng thành. Và chúng cũng cần thời gian để chín mùi. Đối với thiên nhiên không thể thúc bách, ép buộc cho vượt thời gian được. Mọi sự đều có mùa, có giai đoạn để phát triển. Công việc của chúng ta là cứ gieo hạt giống tốt. Thiên Chúa sẽ nối tiếp với ân sủng quyền năng vô hạn. Hãy kiên nhẫn, chờ đợi, phó thác và hy vọng. Happy Father’s Day!

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(6-16-2024)

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN

BA THÙ: THẾ GIAN, XÁC THỊT, QUỶ THẦN

     Cuộc đời là một bãi chiến trường với 3 kẻ thù vô cùng nguy hiểm: quỷ thần, thế gian và xác thịt. Các tín hữu cần tĩnh thức đề phòng, luyện tập nhân đức, cầu nguyện không ngừng và năng chịu các bí tích để lấy lại sức mạnh của ơn thánh thì mới mong chống lại 3 kẻ thù vô cùng nguy hiểm này.

Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận diện 3 kẻ thù với các cám dỗ tinh vi của chúng. Trong bài đọc I, tổ tiên loài người đã sa chước cám dỗ của con rắn, hình ảnh của Satan; vì bà Eva muốn được bằng Thiên Chúa. Bà đã bất tuân Thiên Chúa và ăn trái cây Ngài cấm, để tự mình có khôn Ngoan biết lành biết dữ mà không cần sự dạy bảo của Ngài. Trong bài đọc II, trái với quan niệm của người Hy Lạp khinh thường thân xác, để rồi tự do phạm tội, thánh Phaolo đã nhận ra giá trị cứu độ của thân xác. Thiên Chúa muốn con người dùng thân xác Ngài ban để làm việc, để hy sinh chịu đựng gian khổ và cho việc loan báo Tin Mừng Cứu Độ tới mọi người. Trong bài Phúc Âm, những người thế gian không hiểu nổi sứ vụ cứu độ của Chúa Giesu, nên đã coi Ngài như người bị mất trí, như người bị tướng quỷ Beendebun ám.

     1-Cám dỗ của quỷ thần:

     Ngay sau khi ăn trái cấm ông Adong và bà Eva đã tìm cách lẩn trốn Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người xa cách Thiên Chúa và tiến gần tới ma quỷ. Và mối liên hệ giữa hai ông bà không còn tốt đẹp như xưa. Ông đã đổ lỗi cho bà và đổ lỗi cho Thiên Chúa vì đã dựng nên bà. Còn bà thì nhận ra nguyên nhân của tội là chước cám dỗ của quỷ dưới hình con rắn tinh khôn đã lừa dối bà. Hai ông bà đã phải chịu hậu quả của tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã có một kế hoạch để cứu chuộc con người qua việc hy sinh Đức Kito, Người Con Một của Ngài.

     2-Cám dỗ xác thịt :

     Người Hy Lạp cho thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn con người, vì thế, họ phải tìm đủ mọi cách để giải thoát linh hồn bất tử ra khỏi thân xác con người. Có người còn lạm dụng thân xác để tha hồ phạm tội, vì thân xác chẳng có lợi lộc gì cho họ. Thánh Phaolo phản đối quan niệm này, và tin rằng thân xác của con người được Thiên Chúa tạo dựng là cho một mục đích. Chính Đức Kito, Con Thiên Chúa, đã nhập thể, dủng thân xác hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, để chuộc tội cho loài người. Noi gương Chúa Kito, Phaolo dùng thân xác để hy sinh chịu mọi gian khổ, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho muôn người.

     3-Cám dỗ thế gian :

     Thân nhân coi Người mất trì vì từ bỏ mọi ảnh hưởng của thế gian. Không nhà ở, không tài sản, không nghề nghiệp. Kết thân với người nghèo, người tội lỗi. Đương đầu với người quyền lực… Chúa Giesu đã loại bỏ tất cả những điểm tựa thế gian, để con người có thể dựa vào đó mà nhận họ là người nhà của Chúa. Nhưng chỉ giữ lại điều kiện duy nhất là nghe và thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Mẹ Maria và các môn đệ là người nhà của Chúa vì họ luôn thực thi ý muốn của Thiên Chúa.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(6-9-2024)

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA

Mỗi năm, tại các quốc gia trên thế giới, người ta thường có một ngày đặc biệt (Memorial Day) để tưởng nhớ các chiến sĩ đã bỏ mình vì chính nghĩa. Đây là những con người đã hy sinh bản thân bằng cách đổ máu, để bảo vệ tổ quốc và dân lành khỏi kẻ thù. Ngày Lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta cũng dành để tưởng niệm Đức Kitô, không những đã hy sinh thân mình và đổ máu cứu con người khỏi chết, cho con người được sống đời đời, mà còn muốn ở với con người mọi ngày cho đến tận thế, qua việc thiết lập Bí-tích Thánh Thể. Ngài làm chuyện này vì yêu thương con người.

       Các Bài Đọc hôm nay tường thuật tình yêu Thiên Chúa qua các việc Ngài làm để cứu chuộc con người. Trong Bài Đọc I, vì con người không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, nên để được tha tội, con người cần dâng các súc vật. Máu của các súc vật đổ ra để cho con người khỏi chết và được sống. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh lễ vượt qua và giao ước Sinai được thực hiện qua ông Moses, với lễ vượt qua và giao ước mới, được thực hiện qua Đức Kitô. Ngài là Bánh Không Men và Chiên Vượt Qua của giao ước mới, sẵn sàng hy sinh để chết thay cho con người, và làm cho họ được sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thành Jerusalem để chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Đang khi dùng bữa, Ngài đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể để hiến Mình và Máu cho con người được sống cả đời này và đời sau. Ngài cũng truyền cho các môn đệ phải làm những điều đó thường xuyên để tưởng nhớ đến Ngài.

Lễ Vượt Qua của Đức Kitô có bối cảnh lịch sử từ Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Trong biến cố Vượt Qua này, Thiên Chúa giải thoát dân tộc Do-thái khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập, và đem họ vào vùng Đất Hứa tràn trề sữa và mật. Chúa Giêsu cũng ví Cuộc Thương Khó của Người như một vượt qua. Trong Lễ Vượt Qua cũ, bánh không men và chiên vượt qua là hai thứ không thể thiếu để mừng lễ: máu chiên dùng để bôi trên cửa nhà, để thiên thần vượt qua mà không vào sát hại như sát hại các con đầu lòng của người Ai-cập. Trong Lễ Vượt Qua mới, bánh không men chính là Mình Chúa Giêsu, cũng đã giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết bằng chính Mình và Máu của Ngài. Sau khi ăn Lễ Vượt Qua, người Do-thái phải lên đường bắt đầu cuộc hành trình qua Biển Đỏ. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng thế, sau khi đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể, Ngài và các môn đệ ra núi Olive để cầu nguyện và chịu thử thách.

Cuộc sống của mỗi người cũng thế, sau khi đã lãnh nhận thần lương của Bí-tích Thánh Thể, chúng ta cũng phải bước vào cuộc đời để đương đầu với những khó khăn và thử thách hằng ngày của cuộc sống như: bệnh tật, học hành và công việc, bất đồng, hiểu lầm, chia rẽ, và hận thù đến từ các mối liên hệ với tha nhân… Chính sự sống thần linh nhận được từ Bí-tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta có đủ sức mạnh và nghị lực, để vượt qua tất cả các khó khăn này. Nếu không năng lãnh nhận thần lương, làm sao chúng ta tìm được sức mạnh để vượt qua các khó khăn của cuộc sống?

Lm Joseph Nguyễn Thái

(6-2-2024)

LỄ CHÚA BA NGÔI

        Vua David, tác giả Thánh Vịnh 8, sau khi đã suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa và sự bất xứng của con người, đã phải thốt lên: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” Không phải chỉ có một ngôi, mà cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng cộng tác để lo liệu cho con người. Điều này nhắc nhở cho con người biết họ có địa vị cao quí trước Thiên Chúa; và phải biết sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa.

           Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, ông Moses nhắc lại hai đặc quyền mà dân tộc Israel được hưởng: Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng và ban Thập Giới cho họ. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu đặc quyền được làm con Thiên Chúa qua niềm tin vào Đức Kitô, và họ sẽ được thừa hưởng gia tài của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền…Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay là một dịp để chúng ta nhắc lại bí tích Rửa tội. Nhờ phép Rửa, chúng ta được tẩy sạch tội nguyên tổ và tội riêng đã phạm, được ơn thánh hoá, được nhận làm con Chúa, được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.  Ngày lễ nhắc nhở chúng ta hãy trung thành với Chúa, thi hành những điều đã hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng; đồng thời nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta luôn sống trong tình con thảo với Chúa để có thể thưa với Ngài :”Abba, Cha ơi”.

        Nhờ phép Rửa và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần chúng ta được nhận làm con Chúa. Đã là con thì chúng ta được thừa hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm con Chúa, nhất là chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh của Chúa. Đấy là một vinh dự lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta vì Đức Chúa Cha bởi yêu thương đã dựng nên loài người và tôn lên làm con Ngài để có quyền thừa kế Nước Trời.

        Khi đã trở thành người con Chúa chúng ta được tham dự vào đời sống của Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có Chúa ngự trong mình vì Chúa đã nói: ”Ai yêu mến Thầy và tuân giữ các lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến nó, chúng ta sẽ đến ở trong nó và chúng ta sẽ lập cư trong nhà nó”(Ga 14,23). Thánh Phaolô cũng xác quyết: ”Anh em lại không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ở trong anh em sao”?(1Cr 3,16-17). Các thánh đã sống mầu nhiệm này một cách hết sức ân cần và thân mật. Việc Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn đã ghi sâu vào tâm trí các ngài và làm cho các ngài không bao giờ cảm thấy cô đơn lẻ loi. Thánh Têrêsa Hài đồng đã nói: ”Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, Chúa trở nên tù nhân bị giam hãm trong tâm hồn con”.

Lm Joseph Nguyễn Thái.

(5-26-2024)

CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

        Thánh Thần là Thiên Chúa bị bỏ quên. Để trắc nghiệm, chúng ta thử coi mình có nói về Thánh Thần được hơn 5 phút không! Thời đại của chúng ta, thời đại từ khi Chúa Giêsu về trời cho đến Ngày Tận Thế là thời đại của Thánh Thần; thế mà chúng ta lại biết rất ít về Ngài. May mắn thay, Giáo Hội dùng ngày hôm nay để giúp chúng ta ôn lại giáo lý về Chúa Thánh Thần.

         Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của Ngôi Ba Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật Thánh Thần hiện xuống và đậu lại trên mỗi Tông-đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đề cập đến những công việc của Thánh Thần làm nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo Hội. Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một Phép Rửa, và một tình yêu; vì tất cả đều hoạt động trong cùng một Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc sở hữu bình an và quyền tha thứ cho con người.  

1/ Thánh Thần và bình an: Thánh Thần làm cho các môn đệ nhận ra tất cả sự thật liên quan tới Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, trước khi các ông có bình an. Đây mới là sự bình an thật sự, vì nó đến từ sự xác tín của niềm tin trong tâm hồn con người. Trình thuật kể các Tông-đồ sợ sệt phải đóng kín cửa vì sợ người Do-thái; nhưng một khi các ông đã nhìn thấy Chúa toàn thắng tử thần và phục sinh vinh hiển, và được Thánh Thần giúp nhớ lại và hiểu biết những gì Chúa Giêsu đã nói trước, các ông mở tung cửa ra đi loan báo Tin Mừng, và can đảm đối chất với những người Do-thái trong Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần nhìn đời sống các Tông-đồ trước và sau biến cố Phục Sinh, chúng ta nhận ra sức mạnh của Thánh Thần hoạt động nới các Tông-đồ.

2/ Thánh Thần và tha thứ: Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Một sự nhìn lại 4 phần chính của Bí-tích Giải Tội cho chúng ta thấy vai trò của Thánh Thần trong việc tha thứ các tội của con người: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội, đền tội và sửa chữa khuyết điểm.

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

        -Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn, như thánh Phaolô nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần;” và chúng ta phải cầu nguyện thường xuyên với Ngài, nhất là những giờ phút nghi ngờ, do dự, và không biết quyết định làm sao.

         -Chúng ta không thể hiểu biết và nhận ra sự thật của Thiên Chúa nếu không nhận được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện với Ngài trên đường đi tìm sự thật.

          -Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách quét sạch những xấu xa, tội lỗi; và làm đầy tâm hồn bằng sự thật và ân sủng. Ngài cũng giúp chúng ta có sức mạnh và can đảm làm chứng cho Thiên Chúa. 

Lm Joseph Nguyễn Thái.

(5-19-2024)

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI   

 

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, Thánh Lucas tường thuật hai biến cố: Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ phải ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cầu nguyện để các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải rao giảng Tin Mừng, và Ngài ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời các ông rao giảng. Vậy thì có hai điều chính chúng ta cần tìm hiểu trong ngày lễ ngày Hiền Mẫu và Chúa lên trời:

1-Thiên đàng ở đâu? Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đầy yêu thương, hoan lạc bình an và hạnh phúc. “Thiên đường ở dưới chân các bà mẹ.” (Kinh Coran). Thiên Đàng không phải ở đâu xa, mà ở đâu có tình yêu, có hòa bình, không chém giết hận thù nhau, mọi người sống chung hòa hợp và hạnh phúc thì nơi đó là Thiên Đàng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm về triều đại hòa bình của Đấng Thiên Sai: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau….Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang…” (Is 11,6-9).  Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng đời sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Tóm lại, Nước Trời hay Thiên Đàng có thể không ở đâu xa, mà ở trong lòng mỗi người, trong cộng đoàn ta đang sinh hoạt. Ai yêu thương thì người ấy đang sống trong Nước Trời hay đang hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Còn ai không yêu thương sẽ bị loại ra ngoài Nước Trời, “Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,50).

2- "Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". "Thọ tạo" nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú... Tóm lại là tất cả. Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển…Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi. Và đó cũng là vai trò của các bà mẹ đang thể hiện hiện nay trong tất cả các gia đình. Nhân ngày Hiền Mẫu, chúng ta biết ơn, cầu nguyện và vinh danh tất cả những người mẹ đã sinh ra và mang lại cho chúng ta thiên đàng ngay tại thế gian này. Happy Mother’s Day.

Lm Joseph Thái Nguyễn

(5-12-2024)

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH

Thiên Chúa là tình yêu.

Thiên Chúa, chưa ai thấy bao giờ, nói về tình yêu của Đấng vô hình chúng ta chưa thấy bao giờ, lại còn khó khăn và trừu tượng hơn nữa.  Nhưng may mắn cho con người, Thiên Chúa đã chọn cái cách để bày tỏ tình yêu cho con người qua việc tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, và thánh hóa con người.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh các công việc Thiên Chúa dùng để bày tỏ tình yêu của Ngài. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài cho Cornelius, viên sĩ quan dân ngoại, qua việc cho ông cơ hội để gia nhập đạo thánh Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan sau khi định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” đã dẫn chứng tình yêu này qua việc Thiên Chúa ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài. Trong Phúc Âm, tình yêu Thiên Chúa được lan tràn qua Chúa Giêsu và đổ xuống trên các môn đệ của Chúa. Trước khi các môn đệ có thể yêu thương tha nhân, họ phải ở lại và được thấm nhuần tình yêu này. Ở đây chúng ta thấy có 2 điều:

1-Giới luật yêu thương: Thiên Chúa là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, lan truyền qua Chúa Con, và được trao tặng cho các tông đồ như Chúa đã nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.”

2- Giữ các điều răn là ở lại trong tình thương Thiên Chúa: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”.

Ngài gọi các môn đệ để trở thành bạn hữu: Tình yêu đòi hỏi sự tự do và ngang hàng giữa hai chủ thể. Con người có tự do để đáp lại lời mời gọi của Ngài để làm bạn hữu với Chúa. Không những chỉ chọn con người là bạn hữu, nhưng còn là bạn nghĩa thiết tâm giao. Thông thường, con người chỉ dám hy sinh tính mạng cho người bạn nghĩa thiết. Chúa Giêsu là bạn nghĩa thiết của con người vì Ngài dám hy sinh tính mạng để cho con người không phải chết. Khác với con người chỉ có một hay vài bạn tâm giao, Chúa Giêsu muốn có rất nhiều bạn nghĩa thiết, nên Ngài mở rộng đến mọi người.

        Ngài chọn các môn đệ để được sai đi rao giảng Tin Mừng: Tình yêu Thiên Chúa không giữ lại trong một số người hay một dân tộc, nhưng luôn mở rộng và cho đi đến mọi người. Sứ vụ này vẫn tiếp tục cho đến thời đại chúng ta đang sống, và sẽ còn kéo dài cho tới Ngày Tận Thế. Ngày nay chúng ta cần ý thức sứ mạng làm chứng cho Chúa như lệnh Chúa truyền cho Hội Thánh trước khi lên trời. Làm chứng cho Chúa chỉ thực sự hiệu quả bằng các việc yêu thương cụ thể như cảm thông và tận tình giúp đỡ những người bệnh tật nghèo khổ bên cạnh, nhẫn nhịn chịu đựng những lời nói xấu của người khác, bỏ qua những lỗi lầm của kẻ khác: “biến việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành không có gì” để sống hòa thuận với anh em, dấn thân đi bước trước đến với tha nhân bằng việc năng thăm viếng những người khuyết tật, neo đơn… để động viên an ủi, chia sẻ cơm bánh tiền bạc… hầu đáp ứng các nhu cầu cấp bách của họ. Đó là một số phương cách thực hành yêu thương cụ thể theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu và Đức Maria.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(5-5-2024)

HIỆP NHẤT TRONG CHÚA VÀ GIÁO HỘI

Con người tuy có rất nhiều điểm khác biệt với nhau: niềm tin, văn hóa, hoàn cảnh, địa vị, tính tình, học thức … nhưng được kêu gọi sống chung và hiệp nhất với nhau. Làm sao con người có thể hiệp nhất với nhau giữa bao nhiêu những dị biệt này. Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những điều chính yếu để đạt tới sự hiệp nhất.

Trong Bài Đọc I, Phaolô bị mọi người nghi ngờ vì quá khứ bắt bớ đạo Chúa của ông. Barnabas đã mạnh dạn đứng ra để bênh vực và giới thiệu ông với các Tông-đồ. Sau đó, để tránh xung đột với người Hy-lạp, các Tông-đồ quyết định để Phaolô rời Jerusalem. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan nhấn mạnh đến giới răn yêu thương như một nền tảng cho sự hiệp nhất. Ngài khuyên các tín hữu đừng chỉ yêu thương bằng chót lưỡi đầu môi; nhưng phải biểu tỏ bằng hành động và bằng giữ các giới răn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc để nói lên sự liên hệ mật thiết giữa Ngài và các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành.” Để có thể sinh hoa trái, các tín hữu cần liên kết với cành; nếu không sẽ bị khô héo và chặt đi. Chúa Giêsu là trọng tâm của hiệp nhất và liên kết mọi người với Ngài và với nhau. 

Thiên Chúa là người trồng nho: Trồng nho là nghề đòi nhiều sự chăm sóc và sức lao động để sinh trái ngon ngọt. Trong lãnh vực thiêng liêng, Thiên Chúa cũng chuẩn bị tất cả: Ngài cho con người cây nho quí giá nhất là chính Người Con Một của Ngài. Bên cạnh đó, Ngài cũng chuẩn bị để con người có cơ hội nghe Lời Chúa, và ban Thánh Thần để con người có thể hiểu và tin vào Đức Kitô…

         Thân nho là Giáo Hội: Một sự so sánh với thần học thân thể của Phaolô: con người là chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu; cho chúng ta kết luận: con người là cành nho của một thân nho là Giáo Hội, với Đức Kitô là cây nho. Và có ba loại cành: 1-Cành nào gắn liền với cây sẽ sinh hoa trái. 2-Cành nào gắn liền với cây mà không sinh hoa trái cũng sẽ bị chặt đi. Có thể so sánh với 3 loại người: không nghe lời Chúa; nghe nhưng không chịu thực hành; không dám sống đức tin. 3-Cành nào lìa cây sẽ khô héo liền.

Đây cũng là hình ảnh hiệp nhất của Bí-tích Thánh Thể: Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em … vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” Làm sao chúng ta có thể ở lại hay kết hợp với Chúa? Có thể bằng việc cầu nguyện, hay bằng việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa; nhưng cách kết hợp mật thiết nhất là qua Bí-tích Thánh Thể. Qua Bí-tích này, Chúa thông ban cho chúng ta đời sống thần linh và những ơn thánh cần thiết như nhựa sống của cây, để chúng ta có thể sinh hoa kết trái bằng các việc lành, và có sức để đương đầu với thử thách của cuộc đời. Một gia đình hay cộng đòan năng lãnh nhận BTTT sẽ hiệp nhất với nhau vì được hiệp nhất trong cùng một cây. Người nào không năng lãnh nhận BTTT, họ sẽ từ từ tách biệt ra khỏi gia đình và cộng đoàn.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(28-4-2024)

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH

MỤC TỬ TỐT LÀNH

Người Kitô hữu, tuy bề ngoài cũng giống như bao nhiêu con người khác, nhưng họ có những nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi con người của họ; mà chính họ nhiều khi không ý thức là mình có hay không biết cách xử dụng chúng. Khi các tín hữu biết xử dụng các nguồn sức mạnh này, họ có thể chữa lành bệnh tật, cho người chết sống lại, khai trừ ma quỉ, vượt qua các khó khăn của cuộc sống, và đạt được đích điểm là cuộc sống muôn đời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong các nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi các tín hữu. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến Danh Đức Kitô mà các Kitô hữu tin tưởng, và mầm sống Phục Sinh mà họ đang mang trong mình. Thánh Phêrô dùng Danh Đức Giêsu Kitô để chữa lành người bại liệt, và Ngài quả quyết con người phải tin vào Danh này mới được ơn cứu độ. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan đề cập đến đặc quyền làm con Thiên Chúa của các tín hữu, và gia tài họ sẽ được thừa hưởng sau này.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành, Ngài đến để qui tụ tất cả con chiên lạc để bảo vệ chúng, và làm cho chiên được sống dồi dào. Người Kitô hữu có một người bảo vệ uy quyền, yêu thương, và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho họ. Mục Tử Tốt Lành sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đòan chiên: Trong Tân Ước, Chúa Giêsu ví các tín hữu như chiên và Ngài như người chăn chiên hay Mục Tử. Trong Cựu Ước, tiên tri Ezekiel đã ví Israel như chiên và Thiên Chúa như người Mục Tử (Eze 34). Theo tiên tri, không phải các mục tử đều tốt lành, có những mục tử trong Israel không săn sóc và hướng dẫn chiên, mà chỉ để ý đến lông chiên và thịt chiên. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa quở trách họ và Ngài muốn chính Ngài là Mục Tử để chăn dắt chiên. Ba đặc tính về Mục Tử Tốt Lành Chúa muốn nêu bật trong trình thuật hôm nay:

            (1) Sự khác biệt giữa Mục Tử Tốt Lành và người chăn chiên: Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, khi gặp nguy hiểm thì bỏ chiên mà chạy.

            (2) Mục Tử Tốt Lành biết tất cả chiên của mình: chiên biết người mục tử và người mục tử biết chiên.

            (3) Mục Tử Tốt Lành đến để tìm kiếm các chiên thất lạc và đưa về một đàn. Chiên nghe tiếng mục tử.

Nếu chúng ta chỉ có Mục Tử Tốt Lành biết yêu thương và hy sinh cho đoàn chiên thôi, điều đó chưa đủ, vì khi thế gian giết người Mục Tử Tốt Lành, đoàn chiên sẽ tan tác; nhưng chúng ta cần có một Mục Tử Tốt Lành và uy quyền, Ngài có thể tự mình sống lại và cứu đòan chiên khỏi chết. Chúa Giêsu là Mục Tử vừa tốt lành vừa uy quyền; Ngài yêu thương con người tới độ sẵn sàng hy sinh chết vì tội lỗi con người, và Ngài có uy quyền để sống lại từ cõi chết và phục hồi sự sống vĩnh cửu cho con người. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn.

Linh mục Joseph Thái Nguyễn

(21-4-2024)

Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.

Đức Giêsu Kitô có sống lại thật không? Câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng, vì nó sẽ xác định niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa và vào cuộc sống đời sau. Thánh Phaolô xác quyết: Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích. Làm sao để biết Đức Kitô có sống lại thật không? Sự kiện tìm thấy ngôi mộ trống với các khăn liệm để lại không đủ bằng chứng để một người tin Chúa đã sống lại, vì người khác có thể đánh cắp xác Chúa và phao tin đồn thất thiệt như người Do-thái và ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu đã nghi ngờ. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thêm 3 bằng chứng hùng hồn khác về việc Chúa sống lại.

Trong Phúc Âm, thánh-sử Luca tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ với lời mời gọi hãy rờ vào thi thể của Ngài, và với việc ăn khúc cá nướng trước mắt các ông, để chứng tỏ Ngài đã sống lại thật. Bên cạnh lần hiện ra hôm nay, các thánh-sử đã tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ nhiều lần: với Mary Magdala, với các phụ nữ trên đường về từ mộ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, với 10 Tông-đồ không có Thomas, với 11 Tông-đồ có cả Thomas, với các Tông-đồ đi đánh cá; tổng cộng tất cả có ít nhất là 7 lần Chúa đã hiện ra.

Trong Bài Đọc I cũng như trong Phúc Âm, các Tông-đồ cũng như Chúa Giêsu nhắc nhở cho độc giả biết: kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Theo kế hoạch này, Đức Kitô phải chịu đau khổ (Is 52:13-53:12), chết, và sống lại (Hs 6:1-2); để gánh tội cho con người (Ga 1:29) và bảo đảm cho họ sẽ được sống đời đời (Is 49:6, Ga 6:39-40). Vì thế, thánh Phêrô quả quyết việc người Do-thái lầm lỗi kết tội Con Thiên Chúa nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình.” Điều quan trọng không hệ tại ở chỗ lầm lỡ kết tội; nhưng ở chỗ biết nhận ra tội của mình, như Phêrô kêu gọi dân chúng: “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.”

Trong Bài Đọc I và II, các Tông-đồ và các tín hữu đã can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã nhân danh Đức Kitô rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh, cuộc sống huynh đệ bỏ mọi sự làm của chung của các cộng đoàn tiên khởi, sự phát triển và vững bền của Giáo Hội hơn 2,000 năm qua với hàng triệu thánh nhân đã làm chứng cho Chúa, mỗi năm cả hàng trăm ngàn các anh chị em tân tòng gia nhập đạo. Với 3 bằng chứng tổng quát và hàng triệu các nhân chứng, việc Chúa sống lại là điều chắc chắn đã xảy ra, và niềm tin của chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài được đặt trên một nền tảng vững vàng, chắc chắn hơn xây nhà trên đá.  Chúng ta không bao giờ được để báo chí, dư luận, và cám dỗ thế gian, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào sự Phục Sinh của Đức Kitô và vào sự sống đời sau; vì chúng ta đã có quá nhiều bằng chứng và nhân chứng về niềm tin này.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (14-4-2024)

TÔN VINH LÒNG THƯƠNG XÓT

Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người biết tuân giữ những gì Chúa dạy.

Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài.

Trong Phúc Âm, tác giả tường thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin Chúa vẫn sống. Trong cả hai lần Chúa Giesu phục sinh đều chúc bình an cho các ông vì Chúa biết tâm trạng của các ông là hoảng hốt và lo sợ người Do Thái vào những ngày sau khi Chúa chết. Chúa biết rõ các ông đang cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”

Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.   

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY: 

            – Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô phục sinh, hãy sống những gì Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống tạm bợ và chóng qua ở đời này.

            – Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng, buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống trần gian. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ hãi gì nữa?

            – Hãy tín thác hoàn toàn nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho Đức Kitô biểu tỏ  Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

 (7-4-2024)

MỪNG CHÚA PHỤC SINH!

Để hiểu niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cần so sánh thái độ của các tông đồ: nỗi thất vọng của các ông khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu; các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết vì sợ liên lụy. Nhưng nỗi thất vọng này của các ông đã được bừng lên thành niềm hy vọng của Ngày Phục Sinh: vì Chúa sống lại, mọi biến cố của quá khứ cùng sống lại, được nhìn và mang ý nghĩa với Chúa Phục Sinh.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào các nhân chứng của Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng họ làm chứng và rao giảng. Trong Bài Đọc I, Phêrô, từ một con người chối bỏ Chúa 3 lần trong Cuộc Thương Khó của Ngài, giờ can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt mọi người. Điều đã biến đổi ông là Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, quyền lực thế gian đã không thắng nổi quyền lực Thiên Chúa, chẳng còn gì để sợ hãi nữa. Vì thế sứ vụ của các Tông Đồ là phải rao truyền Tin Mừng cho muôn dân.

Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở cho các tín hữu biết hậu quả của Mầu Nhiệm Phục Sinh mang lại: Họ mang trong mình mầm sống của Đức Kitô Phục Sinh; mầm sống này đòi hỏi họ phải luôn biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, đừng chỉ bằng lòng với những giá trị của hạ giới là của thế gian này. Họ phải sống làm sao để có ngày được cùng sống lại với Chúa Kitô phục sinh.

Trong Bài Phúc Âm, Bà Maria Magdala ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối; Bà không tìm thấy xác Chúa nên vội chạy về báo cho các môn đệ biết. Phêrô và Gioan, khi biết được, đã vội vã chạy đến mộ. Các ông thấy và các ông đã tin những gì Chúa tiên báo trước khi Ngài chịu chết. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” Bản dịch của NPVCGK dịch không chính xác, phải dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù chưa hiểu theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan muốn phân biệt hai niềm tin. Thấy và tin: đây là niềm tin thực nghiệm. Còn theo Kinh Thánh thì Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây là niềm tin dựa vào uy thế của Sách Thánh.

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

– Biến cố Chúa Giêsu Phục Sinh chứng tỏ rõ ràng cho chúng ta một điều quan trọng: chết không hết. Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta lên với Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống như không có đời sau.

– Chúa Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã phục sinh vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình yêu đáp lại tình yêu thương của Ngài.

– Hãy làm hết sức để có được mối liện hệ mật thiết và  yêu thương với Chúa Giêsu như Mary Magdala. Một khi có được tình yêu như thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa bằng cách yêu thương mọi người qua đời sống chứng nhân của ta.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

 (31-3-2024)

LỄ LÁ

Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô

            Con người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan thiện như vậy.

            Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Trong Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày kỷ niệm Lễ Vượt Qua của Do Thái, để bắt đầu một Lễ Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha; ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết, nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai, và đưa họ về cho Thiên Chúa. Xin tóm lược một hai điểm :

-Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Chúa Giesu luôn sẵn sàng mọi sự : có một con lừa cỡi vào thành, lời tiên đoán phản bội, Ngài rất can đảm và tự tin nơi kế hoạch của Thiên Chúa.

-Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới. Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn, Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội. Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.

Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nói: “Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao”? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá! Xin cho chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (24-3-2024)

Mùa Chay 5

Vâng phục và đau khổ mang lại ơn Cứu Độ.

             Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhiều người khinh thường sự vâng phục và chạy trốn đau khổ. Nhiều người thời đại cho vâng lời là yếu đuối và mất tự do. Vì thích hưởng thụ, nên họ cũng trốn tránh mọi gian khổ và từ chối phải hy sinh cho người khác. Nhưng họ phải hiểu: Nếu một trẻ nhỏ chưa đủ trí khôn suy xét, em phải vâng lời cha mẹ để tránh được những hậu quả xấu sẽ xảy ra; tương tự như vậy cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa: vì con người không thể hiểu những bí nhiệm trong trời đất, vâng lời Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm, nếu họ không muốn gánh chịu các hậu quả không hay xảy đến. Hơn nữa, nếu cha mẹ hay những người đi trước cũng sống ích kỷ và trốn tránh đau khổ, làm sao họ có mặt trong cuộc đời, và được hưởng những tiện nghi và địa vị như họ có bây giờ.

            Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy những lợi ích do vâng lời và chịu đựng đau khổ mang lại. Trong Bài Đọc I, dân tộc Israel đã hủy bỏ giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với họ trên núi Sinai, khi họ không vâng phục Lề Luật của Thiên Chúa. Nhưng vì yêu thương nên Ngài sẽ ký kết họ một giao ước mới để giúp họ dễ nhớ và dễ làm hơn, bằng cách khắc ghi Lề Luật trong tâm trí của họ. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái xác quyết: Vì Chúa Giêsu vâng lời làm theo ý Chúa Cha và chịu đựng đau khổ, Ngài đã đem lại ơn cứu độ cho những ai vâng lời Người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đưa ra ích lợi của việc vâng lời và chịu đau khổ qua hình ảnh của hạt giống: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” Chúa dạy ta 3 điều khôn ngoan:

1-Phải chết đi mới đem lại sự sống: Con người ham sống và sợ chết; nhưng theo Luật Thiên Chúa, phải chết đi trước mới có thể sống và mang lại sự sống. Nếu một người sợ chết, họ sẽ không bao giờ biết sống; nhưng nếu một người không sợ chết, họ sẽ sống và sống dồi dào. Họ sẽ không sợ bất cứ một quyền lực nào cả.

2-Phải hy sinh cho đi mới mong được nhận lại: hy sinh cho người khác trước, và không cần trả ơn để Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời sẽ trả ơn. Những người ích kỷ chỉ biết vun quét cho mình, sẽ dần dần bị người khác nhận ra và khai trừ, và họ sẽ mất cuộc sống đời sau như lời Chúa nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

3-Phải phục vụ mới mong được quý trọng: Con người thích được phục vụ và được người khác quý trọng, nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” Họ không thể thích cả hai; nếu muốn được quý trọng, họ phải hy sinh để phục vụ mọi người.

Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giê-su, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (17-3-2024)

MÙA CHAY 4

Thiên Chúa cứu chuộc con người

Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.

Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.  Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:

– Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.

 – Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định: ”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ” (Dt 9,22).

Phải, Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu.  Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta phải biết nhận ra tình thương cứu chuộc của Thiên Chúa và biết ơn Chúa Giêsu hầu khắc sâu lời Ngài đã phán:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (10-3-2024)

MÙA CHAY 3

ĐỀN THỜ TÂM HỒN

Ít có người nào thích ở dơ dáy bẩn thỉu, gây khó chịu cho người bên cạnh. Để thân xác được sạch sẽ, phải năng tắm rửa, nếu không sẽ bệnh hoạn, hôi hám không ai ở gần được. Trong đàng thiêng liêng cũng thế, Thiên Chúa không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Để có thể rước Thiên Chúa vào lòng và ở lại trong tâm hồn, chúng ta cần thường xuyên xét mình để nhận ra những tội lỗi, và mau chạy đến với BT Giải Tội để làm hòa và lãnh nhận ơn tha thứ.

Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những cách thức để nhận ra tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Sách Xuất Hành trình bày cách thức xét mình bằng Thập Giới: 3 giới răn đầu tiên đặc biệt chú trọng tới mối liên hệ với Thiên Chúa, 7 giới răn sau chú trọng tới mối liên hệ với tha nhân. Trong Bài-đọc II, Thánh Phaolô chọn Chúa Kitô chịu đóng đinh trên cả hai thần: thần khôn ngoan của người Hy-lạp, và thần thích biểu dương uy quyền của người Do-thái. Trong Phúc Âm, vì lòng nhiệt thành, khi thấy Nhà Cha của Ngài ra ô uế, Chúa Giêsu đã đánh đuổi những con buôn ra khỏi Đền Thờ. Ngài trách mắng họ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” 

Mùa Chay là dịp thuận tiện để chúng ta thanh tẩy những tính hư tật xấu trong tâm hồn, nhiều người gọi Mùa Chay là mùa xuân của tâm hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể nhận ra những tội lỗi để thanh tẩy? Để có thể thanh tẩy tâm hồn, điều trước tiên con người phải làm là quyết tâm chỉ thờ một Thiên Chúa mà thôi: Không thờ phượng hai thần, không làm tôi hai chủ. Bài Đọc I nói rõ: “Thiên Chúa là Thiên Chúa ghen tương.” Ngài không chấp nhận ở chung với bất cứ thần nào.

– Thánh Teresa Hài Đồng nói: “Thiên Chúa nhận tất cả những gì chúng ta cho Ngài, nhưng sẽ không cho tất cả những gì của Ngài cho chúng ta, cho tới khi Ngài nhìn thấy chúng ta đang cho Ngài tất cả những gì chúng ta có.”

– Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Đừng để ý tới bất cứ tạo vật nào nếu anh muốn giữ hình ảnh của Thiên Chúa rõ ràng và đơn nhất trong linh hồn anh, nhưng hãy trút đi tất cả những gì liên quan tới chúng và chạy xa khỏi chúng, và anh sẽ đi trong ánh sáng của Thiên Chúa.” Còn biết bao các thần tạo vật mà chúng ta đang làm nô lệ cho nó trong cuộc đời. Hãy mạnh dạn quăng đi tất cả để dành cho Thiên Chúa chỗ ưu việt nhất trong cuộc đời.

Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là tâm hồn và thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành ”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (3-3-2024)

        MÙA CHAY 2

THIÊN CHÚA HY SINH NGƯỜI CON MỘT

Tình yêu là quan niệm trừu tượng: con người không thể định nghĩa tình yêu, nhưng có thể cảm nghiệm thế nào là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa còn khó hiểu hơn nữa, vì chúng ta chưa từng thấy Ngài; nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mỗi khi ngước nhìn Cây Thập Giá.

        Các Bài Đọc hôm nay được sắp xếp rất tài tình để giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa qua hai biến cố xảy ra trên Núi Moriah và trên Đồi Golgotha. Trong Bài Đọc I, Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự kiện Thiên Chúa muốn thử thách đức tin của Abraham bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đã so sánh biến cố này với biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu trên Đồi Golgotha, trước khi rút ra kết luận: Nếu Thiên Chúa đã yêu con người đến độ đã hy sinh Người Con Một cho con người, còn gì có thể mà Thiên Chúa không làm cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mang ba môn đệ thân tín lên núi Thabor, cho các ông xem thấy vinh quang của Ngài, mục đích là để chuẩn bị cho các ông đối diện với Cuộc Thương Khó sắp tới:

(1) Ngài chính là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha nói những lời này; lần thứ nhất trong biến cố Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng.

 (2) Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà Luật và các tiên-tri loan báo: Sự có mặt của hai chứng nhân: ông Elijah đại diện cho các tiên tri, cùng ông Moses đại diện cho Luật, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, chứng tỏ điều này.

(3) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Đây là điểm cao của việc Biến Hình, mặc dù trình thuật không đề cập tới. Khi cho Con của Ngài đi qua Cuộc Thương Khó để cứu chuộc con người, Thiên Chúa muốn các ông hiểu tình yêu của Ngài dành cho con người.

(4) Chúa Giêsu tự nguyện đi qua Cuộc Thương Khó: Ngài tình nguyện chấp nhận chịu đau khổ, chứ không phải Ngài thua cuộc trước bạo lực của con người qua cuộc bàn luận với các chứng nhân Cựu Ước về những gì sắp xảy ra.

Thiên Chúa cho Người Con Một là cho chính Ngài. Ngài cũng mong chúng ta phải cho chính người con một của chúng ta, tức là cho chính chúng ta, như Abraham vậy. Tình yêu trọn vẹn là như thế. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài qua hai biến cố: chuẩn bị tâm hồn con người qua biến cố Abraham-Isaac, và cảm nghiệm rõ ràng qua Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại hy sinh như thế, cũng không hiểu được  tại sao Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào Ngài như  Abraham. Đức tin dạy chúng ta nếu chúng ta từ chối đau khổ và Thập Giá, chúng ta cũng từ chối con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh.

Lm Joseph Nguyễn Thái.  

 (25-2-2024)

        CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY      

CHÚA CHỊU CÁM DỖ

Nhìn lại lịch sử là điều cần thiết để hiểu biết và phê bình. Để so sánh cách chính xác, con người thường so sánh những gì xảy ra trước và sau khi một người nhận công việc hay chức vụ. Ví dụ, để phê bình tổng thống Biden, người ta sẽ dựa vào tình hình chính trị và kinh tế trước và sau khi ông nhậm chức tổng thống. Cả ba Bài Đọc hôm nay đều cho chúng ta thấy một sự tương phản trước và sau những biến cố lịch sử chính.

Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Sáng Thế cho chúng ta nhìn thấy những gì xảy ra sau trận Lụt Hồng Thủy; điều này giả sử phải có lý do và những gì xảy ra trước đó. Thiên Chúa đã nhìn thấy tội lỗi con người xúc phạm đến Ngài quá nhiều, nên Ngài muốn tái tạo một trời mới đất mới, trong đó có gia đình Noah. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Phêrô so sánh Lụt Hồng Thủy với cái chết của Đức Kitô. Nếu Lụt Hồng Thủy tàn sát tất cả vì tội lỗi con người, cái chết của Đức Kitô xóa đi tất cả tội lỗi và cứu sống con người. Điều này bảo đảm Lời hứa của Thiên Chúa: Lụt Hồng Thủy sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Trong Phúc Âm, sau khi Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu cám dỗ 40 đêm ngày, Ngài đã thắng vượt được tất cả và bắt đầu hành trình rao giảng Tin Mừng để đem ơn Cứu Độ đến cho con người. 

      Trình thuật cám dỗ của Chúa Giêsu gợi lại “biến cố cám dỗ” trong Vườn Địa Đàng: có Satan, các dã thú, và các thiên thần. Khi con người chưa rơi vào chước cám dỗ, họ có thể ở chung với dã thú mà không sợ hãi. Khi con người sa chước cám dỗ, các dã thú sợ hãi và có thể gây nguy hiểm cho con người. Điều này cũng đã được tiên tri Isaiah nói tới khi triều đại Thiên Chúa đến, chó sói sẽ ở chung với chiên… trẻ thơ có thể thò tay vào hang rắn lục mà không sợ nguy hiểm (Isa 11:6-9). Ngay cả trong khi bị cám dỗ, các thiên thần của Chúa vẫn hiện diện để nâng đỡ và gìn giữ con người khỏi sa chước cám dỗ.

       Marcô chỉ tường thuật tổng quát Chúa Giêsu chịu cám dỗ, nhưng không tường thuật chi tiết các cám dỗ như Matthew và Luke (Mt 4:1-11, Lk 4:1-13). Điều Marcô muốn nhấn mạnh là sự khác biệt giữa hai biến cố: Đức Kitô, Adam mới đã thắng vượt mọi cám dỗ, chứ không sa chước cám dỗ như Adam cũ! Qua Đức Kitô triều đại Thiên Chúa hứa được thực hiện và hòan tất tốt đẹp sẽ bắt đầu với hai điều kiện quan trọng là sám hối và tin vào Tin Mừng. Ăn năn sám hối: Giống như Gioan, Chúa Giêsu cũng đòi con người phải nhận ra tội lỗi và ăn năn sám hối; vì không thể nhận được sự tha thứ nếu không thú nhận tội lỗi của mình. Ơn thánh của Thiên Chúa đòi sự cộng tác của con người. Tin vào Tin Mừng là chính Đức Kitô: con người của Ngài, những lời Ngài dạy dỗ và các việc Ngài làm trong kế hoạch cứu độ và tình thương của Thiên Chúa. Ngài là Đấng gánh tội cho con người và giải thoát con người khỏi chết đời đời.

           Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta đọc lại lịch sử và tin vào tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Và cũng là thời gian dừng lại để nhận ra những cám dỗ đang rình rập và bủa vây xung quanh chúng ta, và nhờ việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa giúp ta vượt thắng cám dỗ.

Lm Joseph Nguyễn Thái     

 (18-2-2024)

CN 6 TN

Bệnh phong cùi và tội lỗi            

Bệnh phong cùi là chứng bệnh ghê tởm và nguy hiểm nhất trong các chứng bệnh của con người. Nhưng vẫn không thể so sánh với một chứng bệnh khác còn kinh khủng hơn, không những chỉ tàn phá thân xác, mà còn giết chết linh hồn con người: đó là tội lỗi. Trong Sách Các Vua, quyển II, có thuật lại bệnh tham tiền của Gehazi, đầy tớ của Tiên-tri Elisha: Khi thấy thầy mình từ chối không chịu nhận bất cứ lễ vật gì do Tướng Naaman, người Syria dâng tặng, ông vội bí mật lấy ngựa chạy theo và mạo danh nghĩa thầy mình để xin một số của cải. Hành động của ông không thóat khỏi mắt của thầy, và kết quả là ông không những mắc bệnh phong cùi của Naaman, mà còn truyền lại cho con cháu (2 Kgs 5:20-27).

           Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những đau khổ của các chứng bệnh nguy hiểm này, và sự đặc biệt quan tâm của Thiên Chúa cho các bệnh nhân. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Levi liệt kê những gì người phong cùi phải chịu. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô bắt chước thánh nhân như ngài đã bắt chước Đức Kitô: đó là phải cố gắng làm mọi sự cho mọi người, sao cho tất cả đạt tới ơn Cứu Độ. Trong Phúc Âm, người phong cùi đến quì trước Chúa Giêsu và xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu động lòng thương và đưa tay chạm đến anh, lập tức chứng phong cùi biến mất và anh được lành bệnh.  Đụng đến người cùi là trở thành ô uế giống như họ. Chúa Giêsu đã để mình trở thành ô uế giống như anh phong cùi. Theo Sách Levi, Chúa không được vào Đền Thờ hay các hội-đường để làm các việc phụng vụ!

Sách Tiên Tri Isaiah nói cho chúng ta biết trước về tình thương của Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa: “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. 4 Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. 5 Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Isa 53:3-5).

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

– Qua hình ảnh bệnh phong cùi, chúng ta hiểu được những nguy hiểm của tội lỗi. Nếu chúng ta sợ mắc bệnh phong cùi thế nào, chúng ta cũng phải sợ tội lỗi như thế.

        – Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Người Con Một của Ngài. Chính Người Con này đã mặc lấy tất cả bệnh họan tội lỗi của chúng ta để cứu chữa chúng ta.

       – Noi gương Đức Kitô, Đấng đã chết cho chúng ta, chúng ta cũng phải hy sinh chết cho nhau, để tất cả đều đạt tới ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho con người.