trung tâm công giáo việt nam

GIÁO PHẬN ORANGE, CALIFORNIA, USA

1538 Century Blvd, Santa Ana, CA 92703
Phone: (714) 554-4211 Fax: (714) 265-1161
Email: hiepthong2013@gmail.com
Thánh Lễ  được cử hành lúc 8:30 sáng giờ California mỗi ngày

Linh mục Giám Đốc: cha Joseph Nguyễn Thái


Radio 1480 AM - Sống Đức Tin - Phát Thanh Hằng Tuần 8pm-9pm Thứ Năm: Link --> 20240926 Radio

LECTIO DIVINA

HỌC HỎI – SUY NIỆM - CHIA SẺ TIN MỪNG 

Xin NHẤP vào đây để có các bài Suy Chiêm


Kinh Cầu Nguyện Trước Ngày Bầu Cử.
(soạn bởi Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ)

Lạy Chúa / ngày bầu cử đã gần đến / xin cho chúng con hiểu rõ hơn về những vấn đề / và những quan tâm ảnh hưởng đến thành phố / tiểu bang và đất nước của chúng con / và xin thôi thúc chúng con / đáp trả theo tinh thần Phúc Âm / khi thể hiện vai trò công dân trung tín trong cộng đồng. 

Xin cho đôi mắt của chúng con / không bị mù lòa / để chúng con nhận ra mọi người là anh chị em / duy nhất và bình đẳng về nhân phẩm / đặc biệt là những nạn nhân của việc lạm dụng / bạo động / lừa dối và nghèo đói. 

Xin cho đôi tai của chúng con / nghe được những tiếng khóc của trẻ em chưa sinh ra / và những người bị bỏ rơi / đàn ông và phụ nữ bị áp bức / vì kỳ thị chủng tộc hoặc tín ngưỡng / tôn giáo / hoặc giới tính. 

Xin cho tâm trí của chúng con được rộng mở / để lắng nghe tiếng nói của các nhà lãnh đạo / những người sẽ đưa chúng con đến gần hơn với Nước Trời. 

Xin cho chúng con biết nhận định / để chọn những nhà lãnh đạo biết nghe Lời Chúa / thể hiện tình yêu Chúa / và luôn duy trì đường lối sự thật của Chúa / khi họ bước theo dấu chân Chúa Giêsu và các Tông Đồ /  hướng dẫn chúng con đến Vương quốc của công lý và hòa bình. 

Chúng con nguyện xin những ơn trên / nhờ danh Chúa Giêsu Kitô Con Chúa / và qua quyền lực của Chúa Thánh Thần. Amen.

Thứ Sáu 04-10-2024 Thánh Phanxicô thành Át-xi-di. Lễ nhớ.

Thứ Bảy 05-10-2024 Chân phước Phanxicô Xaviê Xaviê Sêlô, linh mục.

Chúa Nhật 06-10-2024 Chúa Nhật XXVII Thường Niên. Năm B.

Thứ Hai 07-10-2024 Đức Mẹ Mân Côi. Lễ nhớ.

Thứ Tư 09-10-2024 Thánh Đi-ô-ni-xi-ô, giám mục và các bạn tử đạo. Thánh Gio-an Lê-ô-na-đi, linh mục.

Thứ Sáu 11-10-2024 Thánh Gioan XXIII, giáo hoàng.

Chúa Nhật 13-10-2024 Chúa Nhật XXVIII Thường Niên. Năm B.

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN

HÔN NHÂN BẤT KHẢ PHÂN LY

Khi Thiên Chúa truyền cho con người làm điều gì, con người có thể hay có khả năng làm điều đó; vì Ngài không thể truyền cho con người làm điều gì họ không thể làm. Có nhiều lý do khiến con người không làm điều Thiên Chúa truyền: (1) Con người không muốn làm điều Thiên Chúa truyền, mà chỉ muốn làm điều con người muốn, vì nó phù hợp với con người hơn. (2) Con người có khả năng làm; nhưng không chịu cố gắng làm vì lười biếng, sợ khó khăn, sợ gian khổ, hay sợ chết. (3) Có những điều con người chỉ có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.

Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự trung thành của ơn gọi gia đình, điều mà nhiều người cho là không thể thực hiện được. Trong bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế xác nhận ơn gọi hôn nhân nằm trong kế-hoạch của Thiên Chúa cho con người ngay từ đầu.  Trong Bài Đọc II, sức mạnh và ơn thánh giúp con người có thể làm điều Thiên Chúa truyền đến từ Đức Kitô qua việc sống theo lề luật của Chúa, Lời Chúa, và nhờ các Bí-tích. Trong bài Phúc Âm Marcô, khi mấy Biệt-phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có được ly dị vợ không; dù Chúa Giêsu biết Moses cho phép ly dị vì sự cứng lòng của dân chúng, Ngài vẫn xác quyết ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ thuở ban đầu là không được. Lý do: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”

Thực trạng hôn nhân ngày nay, cứ hai đôi thì có một đôi ly dị. Vậy thì có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau suốt đời. Và cũng có những cặp dẫm chân lên đời nhau mà ra đi đau đớn! Có nhiều lý do để trung thành với nhau, và cũng có nhiều lý do dẫn đến ly dị. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn". Phải, người ta thường nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", dù con người có nỗ lực đến đâu cũng không đạt tới kết quả mong muốn nếu không có ơn Chúa trợ giúp vì Ngài đã nói: "Không có Thầy các con không làm được gì", nhưng Ngài cũng nói: "Hãy xin thì sẽ được", tức là phải nỗ lực cầu nguyện nhiều để gia đình được hiệp nhất, tránh được sự đổ vỡ đang rình rập.

Để có được những tâm tình đó, Đức Cha Nguyễn sơn Lâm đã dạy:"Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Đức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.

Lm Joseph Nguyễn Thái    

 (10-6-2024)

CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN

GHEN TỊ VÀ THAM LAM

            Tính phe đảng, ghen tị, và tham lam, làm con người dễ quên đi mục đích và khai trừ những ai không có cùng quan niệm hay không thuộc nhóm của mình. Người tín hữu phải nhớ điều quan trọng hàng đầu là làm cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi; còn cách thức làm sao để thực hiện điều này là tùy vào ơn riêng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Cần tránh thái độ chỉ có người của mình hay cách của mình mới quan trọng. Đừng ghen tị khi người khác được bằng mình hay hơn mình. Vì một người không thể làm hết, và cũng không có sức để chịu đựng tất cả; do đó, Thiên Chúa cần nhiều thợ nhiệt thành để làm việc trong vườn nho của Ngài.

            Các Bài Đọc hôm nay muốn dạy con người phải diệt trừ tính phe đảng, ghen tị, và tham lam. Trong Bài Đọc I, ông Moses ước mong ơn Thánh Thần được ban cho mọi con cái Israel, để họ đừng than phiền, kêu trách Thiên Chúa, và kêu trách ông nữa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê quan niệm của cải trong trời đất là của Thiên Chúa ban cho mọi người; không ai có quyền vơ vét và tích trữ của cải cho mình đến nỗi để người khác phải chịu thiệt thòi và túng thiếu. Trong Bài Phúc Âm, khi Gioan nói với Chúa Giêsu ông ngăn cấm một người đã lấy danh Chúa Giêsu trừ quỉ, vì người đó không ở trong nhóm môn đệ của Chúa. Ngài trả lời ông: đừng ngăn cản họ vì “ai không chống đối chúng ta là thuộc về chúng ta.”

     Cần loại trừ tính phe đảng, độc tài. Để một người trừ được quỉ, họ phải có một đức tin vững mạnh nơi Chúa Giêsu và phải nhân danh Ngài mà nói, thì mới trừ được. Nếu một người không có đức tin, và không nhân danh Chúa, họ không bao giờ họ có thể trừ được quỉ. Đức tin có được hay mất đi phải có thời gian lâu dài; chứ không một sớm một chiều mà có hay mất được. Vì thế, khi họ trừ được quỉ là họ đã có đức tin vào Thiên Chúa, tại sao cần phải ngăn cấm họ. Hơn nữa, mục đích của Chúa Giêsu khi chọn các môn đệ là để huấn luyện các ông loan truyền Tin Mừng, chứ không chú trọng đến danh nghĩa và quyền lợi của cá nhân hay của nhóm. Ngài ban cho các ông quyền trừ quỉ để khơi dậy niềm tin, chứ không phải là đặc quyền để bảo vệ. Tính phe đảng làm con người không còn biết chú trọng đến mục đích, nhưng chú trọng đến tiếng tăm, quyền lợi, và dễ dàng khai trừ người khác.

             Bác ái và gương sáng là hai cách hiệu quả để rao giảng Tin Mừng. Đạo của Chúa Giêsu là đạo bác ái yêu thương. Người môn đệ của Chúa không thể mến Chúa mà không yêu người. Tiêu chuẩn Chúa dùng để phán xét người môn đệ là đức bác ái (Mt 25). Nếu ai làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa, người đó sẽ được hưởng cuộc sống đời đời. Đồng thời phải làm gương lành cho người khác. Nếu đã không làm điều tốt cho tha nhân, họ còn ngăn cản tha nhân đến với Chúa bằng gương xấu họ làm, chắc chắn họ phải sống xa Thiên Chúa như Lời Chúa dạy hôm nay: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9,42).

     Lm Joseph Nguyễn Thái        

 (9-29-2024)

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN

Sống theo sự khôn ngoan của Chúa

             Có nhiều người muốn biết nhưng không chịu học; muốn được khen ngợi nhưng chẳng có gì để được khen ngợi; muốn được người khác yêu thương, thông cảm; nhưng chẳng bao giờ chịu yêu thương và thông cảm người khác; muốn làm lớn nhưng chẳng muốn làm gì cả. Những người này khi không được những điều mình muốn, họ tìm cách phá đám cho bỏ ghét, cho đỡ tức. Lẽ ra họ phải dùng trí khôn để tìm hiểu, xây dựng; họ lại dùng vũ lực để phá hủy, để tiêu diệt.

            Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết thay đổi lối sống của thế gian để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thay vì phải thay đổi cho phù hợp với lối sống của Thiên Chúa, kẻ gian ác muốn thử thách Thiên Chúa bằng cách bách hại người công chính. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê dạy các tín hữu: nếu muốn có bình an đích thực, họ phải từ bỏ lối sống theo tham vọng trần tục, để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Còn Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần :
    1/ Đức Giêsu lần thứ hai loan báo cuộc Thương khó của Ngài cho các môn đệ. Nhưng Nhóm Mười Hai vẫn không hiểu gì hơn đám đông dân chúng về các điều kiện để đạt tới Nước Trời. Các ông vẫn quan niệm rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa trần gian mang mầu sắc chính trị. Các ông không hiểu rằng Ngài là Đấng Kitô đau khổ, đến để phục vụ và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, trên đường đi các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước Ngài sắp thành lập.

     2/ Về đến nhà, Đức Giêsu ôn tồn nói cho các ông thái độ khôn ngoan phải có trong Nước Ngài sắp thành lập: Phải biết phục vụ, đừng ai để ý đến địa vị lớn hay nhỏ để ganh đua. Người có chức vụ càng cao càng phải hạ mình xuống phục vụ như người đầy tớ. Phải tiếp đón mọi người, không phân biết già trẻ, sang hèn với tinh thần quảng đại.

     Thánh Phanxicô Salêsiô là một giám mục nổi tiếng về lòng khoan dung và đức khiêm nhường phục vụ. Ngày nọ sau giờ làm việc, người giúp việc của Tòa Giám Mục vốn có tật thích ăn nhậu say xỉn đã leo rào ra ngoài quán cóc gần đường đó ăn nhậu với chúng bạn và đã bất cẩn uống rượu quá chén. Khi mò về tới tòa giám mục thì trời đã khuya. Do quá say, anh quên rằng phải leo rào để về nơi ở, nên đã nằm đại ra trước cổng tòa giám mục ngủ ngáy khò khò. Bấy giờ thánh Phanxicô Salêsiô vẫn còn thức đêm làm việc, nghe thấy tiếng ngáy liền đi ra mở cổng và khi nhận ra người giúp việc của ngài đang ngủ say, liền cõng anh ta vào phòng riêng và đặt nằm trên giường của mình. Còn ngài thì tạm nghỉ trên chiếc ghế salon trong phòng khách.
Sáng ngày thức dậy, anh giúp việc rất ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên giường của đức giám mục. Anh nhớ ra bữa nhậu say xỉn tối hôm trước, liền vội chạy đến quì trước mặt đức giám mục thú tội để xin tha tội. Và cũng từ ngày đó anh giúp việc đã chừa được tật ưa ăn nhậu say xỉn.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-22-2024)

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN

QUA ĐAU KHỔ TỚI VINH QUANG

Cô X đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, mẹ cô đã qua đời để lại cha cô và 3 người em. Cô phải thay mẹ chăm sóc các em; nhất là người em gái còn trẻ mắc chứng bệnh “lupus” hiểm nghèo. Khi gặp một linh mục công giáo đến an ủi, cô rơm rớm nước mắt và thắc mắc: Tại sao một Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự và thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ như thế?

  Các Bài Đọc hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của cô X: mặc dù Thiên Chúa có uy quyền làm cho mẹ cô X sống và chữa lành em cô khỏi bệnh; nhưng Ngài chọn con đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô X được hưởng ơn cứu độ muôn đời. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah tiên báo những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi Trung của Thiên Chúa: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ; nhưng sẽ vượt qua tất cả vì một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa. Chính vì những đau khổ Ngài chịu, mà ơn cứu độ được dâng tặng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: đức tin của họ vào Thiên Chúa phải được bày tỏ qua hành động. Nếu họ yêu thương Thiên Chúa, họ cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động cụ thể. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. 

Trong Bài Phúc Âm, sau lời tuyên xưng của Phero: “Thầy là Đấng Kito”, Đấng Kito có nghĩa là Đấng được xức dầu hay Đấng Thiên Sai mà Cựu Ước loan báo đến để giải thoát con người. Trong Marcô, Đức Giêsu thường cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. Lý do, Ngài muốn họ hiểu biết đúng về Đấng Thiên Sai: Ngài không dùng uy quyền, nhưng chịu đau khổ để giải phóng con người. Chúa Giesu đã khiển trách Phero là “Satan” vì Phero ngăn cản Chúa đi theo con đường qua đau khổ đến vinh quang.

1-Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cứu độ con người: Dĩ nhiên, Thiên Chúa có uy quyền để cứu độ con người theo cách thức con người mong muốn; nhưng đó không phải là cách thức Ngài mong muốn, mà là qua con đường đau khổ. Nhiều người chất vấn tại sao Thiên Chúa làm như thế? Câu trả lời trước tiên là con người không khôn ngoan hơn Thiên Chúa: khi Thiên Chúa chọn cách nào, đó là cách thức tốt đẹp nhất cho con người. Hơn nữa, theo kinh nghiệm, con người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa khi họ bị đau khổ; còn khi sung sướng, hạnh phúc, rất ít người nhớ tới Thiên Chúa. Sau cùng, con người yêu thương sâu xa những ai đã hiến mình vì họ; mỗi lần nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận tình thương vô biên Thiên Chúa dành cho họ.

        2-Con người trốn tránh đau khổ: Phản ứng của Phêrô cũng giống như phản ứng của cô X ở trên, và cũng giống như truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền. Bài học cho chúng ta là con đường đau khổ là con đường khôn ngoan Thiên Chúa dùng để cứu độ con người. Ngài muốn Con Một Ngài chịu đau khổ để cứu chuộc con người và Ngài cũng muốn dùng đau khổ để con người nhận ra: họ không thể sống thiếu Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-15-2024)

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN

THIÊN CHÚA GIẢI THOÁT BỆNH TẬT HỒN XÁC

Con người bị bao vây bởi biết bao những nguy hiểm về phần hồn cũng như về phần xác. Về phần hồn, những chước cám dỗ của ma quỉ và thế gian làm con người xa lìa Thiên Chúa và sống theo những dục vọng của xác thịt. Về phần xác, con người phải đương đầu với các thiên tai bên ngoài như hạn hán, bão lụt, núi lửa, sóng gió, động đất, chiến tranh; thêm vào đó, các bệnh phần xác như mù, điếc, câm què. Khi phải đương đầu với những nguy hiểm này, con người dễ rơi vào hai thái độ:

         (1) Từ chối Thiên Chúa: Tại sao một Thiên Chúa nhân lành lại để những đau khổ như thế xảy ra cho con người? Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ không tin Thiên Chúa; và tìm cách giải quyết theo cách thức trần gian.

         (2) Nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc đời: Thiên Chúa để đau khổ xảy ra để con người nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời họ và biết yêu thương tha nhân hơn. Tục ngữ Việt-nam có câu: “có đau mắt mới biết thương người mù;” “có mù mới biết sự quí trọng của ánh sáng.” 

          Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào những nguy hiểm con người phải đương đầu với, và cách thức để được chữa lành. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết với dân Do-thái khi họ sống trong cảnh lưu đày: Thiên Chúa chúng ta có thể làm được tất cả; vì thế, đừng sợ hãi và hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ đến và chữa lành tất cả. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu lên hai tội phần hồn cần được chữa trị là thành kiến và đối xử thiên vị. Đức Kitô là người giải phóng và chữa lành con người khỏi hai bệnh phần hồn này. Trong Phúc Âm, khi người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa câm vừa điếc để xin Chúa Giêsu đặt tay trên anh, Ngài đã dẫn anh ta ra một nơi và chữa anh khỏi bệnh.

Hai bệnh điếc và ngọng thường đi đôi với nhau. Để tránh cho anh khỏi bị xấu hổ trước đám đông, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha,” nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Tiên tri Isaiah trong Bài Đọc I đã nói trước những gì sẽ xảy ra khi Đấng Thiên Sai tới: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” Đọc Tin Mừng, tất cả những điều này đã được làm nhiều lần bởi Chúa Giêsu như những lời tiên tri Isaiah nói về Ngài khi Ngài về Nazareth và giảng dạy trong hội đường (Lk 4:16-21). Chỉ có Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới có thể giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác. Không ai có thể thay thế vai trò của Ngài trong Kế Hoạch Cứu Độ. Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên những người bảo vệ sự sống, và chữa lành những vết thương phần hồn cũng như phần xác cho con người; nhất là giới thiệu họ đến với Đức Kitô, để họ cũng tin vào Ngài và được chữa lành. 

Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-8-2024)

CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN

Thờ phượng Thiên Chúa đích thực

          Nhiều người giới hạn đạo vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ: như đi tham dự Thánh Lễ mỗi tuần; hay chỉ chịu Phép Rửa để có danh hiệu Kitô hữu; hay chỉ thi hành một số điều bên ngoài mà Lề Luật đòi buộc. Tôn giáo chân chính đòi con người phải sống kết hiệp với Thiên Chúa khi làm việc thờ phượng cũng như trong đời sống hàng ngày. Các tín hữu phải tuân giữ tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa, và phải sống đức bác ái cách trọn hảo bằng việc giúp đỡ tha nhân.

            Mỗi Bài Đọc hôm nay tập trung trong một khía cạnh của việc thực hành tôn giáo. Trong Bài Đọc I, ông Moses đưa ra những lý do để khuyên con cái Israel phải tuân giữ trọn vẹn Thập Giới của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Thiên Chúa dạy, vì thi hành phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm để minh chứng đức tin sống động của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo việc thực hành tôn giáo bằng những lễ nghi giả hình bên ngoài của các kinh sư và biệt phái, như giữ các lề luật về việc thanh sạch bên ngoài; mà quên đi việc thanh tẩy thực sự trong tâm hồn. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu muốn dạy con người 3 điều quan trọng:

            (1) Đừng thờ Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài: vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn con người. Họ có thể đánh lừa người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa.

            (2) Đừng vịn vào truyền thống để hủy bỏ Lề Luật của Thiên Chúa. Ngài không đến để phá hủy truyền thống; nhưng Ngài muốn dạy cho họ biết phải đặt giới luật của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới luật của Thiên Chúa và luật lệ hay truyền thống của con người, họ phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Ví dụ: luật phá thai hay án tử hình.

            (3) Thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn thanh tẩy đồ dùng bên ngoài. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”

            Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là con người phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Sau đoạn văn này Mác-cô tường thuật các hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế” của Do Thái giáo để thực hiện cuộc cách mạng đưa việc thờ phượng Thiên Chúa từ trong tâm hồn với việc nội tâm hóa luật luân lý sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(9-1-2024)

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN

QUYẾT ĐỊNH KHÔN NGOAN

     Con người phải thường xuyên làm rất nhiều quyết định trong cuộc đời: có những quyết định không quan trọng cho lắm như ăn gì, uống gì, mặc gì; nhưng cũng có những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời như chọn nghề nghiệp, chọn người để kết hôn, chọn tôn giáo để tin… Khi con người làm quyết định, con người phải chịu trách nhiệm và lãnh nhận mọi hậu quả sẽ xảy ra; vì thế, con người phải biết quyết định cách khôn ngoan. Để biết quyết định cách khôn ngoan, con người cần học hỏi và suy xét để biết trước những hậu quả có thể xảy ra.

        Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người phải quyết định cách khôn ngoan. Trong Bài Đọc I, Thủ Lãnh Joshua triệu tập đại hội tại Shechem, để buộc con cái Israel phải biết quyết định dứt khoát: thờ phượng một Thiên Chúa hay thờ phượng các thần ngoại bang. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra hình ảnh lý tưởng của sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để làm gương cho vợ chồng phải trung thành với nhau suốt đời. Để có thể trung thành suốt đời, vợ cần phải vâng lời chồng, và chồng cần phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể của mình. Trong Phúc Âm, sau khi đã làm hai phép lạ cả thể, dạy dỗ và mặc khải cho dân chúng về mầu nhiệm Thánh Thể, có hai phản ứng trái ngược nhau xảy ra:

     Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được “ăn thịt và uống máu” Ngài. Và thật sự các lời này không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm,  nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.

         Trước việc các môn đệ rút lui không theo Người nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội của Giuda, Đức Giê-su buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa , anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”. Nhân danh các môn đệ, Phê-rô đã tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” Chỉ trong ánh sáng của đức tin, người ta mới có thể nhận biết những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của phàm nhân. Mặc khải Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải này vẫn sẽ là “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại. Bí-tích Thánh Thể vô cùng quan trọng cho cuộc đời, nếu hiểu sai về Bí-tích này sẽ ngăn cản chúng ta không đạt được cuộc sống đời sau như Chúa nói: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. 

     Lm Joseph Nguyễn Thái 

(8-25-2024)

CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN

TRƯỜNG SINH BẤT TỬ

     Con người khôn ngoan không bao giờ muốn chết, nhưng muốn được sống “trường sinh bất tử;” nhưng cái chết là một thực tại và nó luôn đe dọa mạng sống con người. Tại sao khao khát trường sinh có thể nói là một bản năng của con người mà cái chết lại cướp đi bản năng đó. Con người có hy vọng gì để đạt được nỗi khao khát trường sinh không? Hy vọng lớn lao và may mắn cho con người: Niềm tin và đạo lý Công Giáo dạy: (1) Nỗi khao khát trường sinh là một khao khát có thật vì Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, muốn con người được trường sinh bất tử. (2) Vì tội lỗi mà con người phải chết; nhưng Thiên Chúa đã có sẵn Kế Hoạch Cứu Độ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết.

        Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh nỗi ước ao được sống trường sinh của con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Châm Ngôn nhân cách hóa sự khôn ngoan và nêu lên một điều kiện để con người được sống: phải “ăn bánh và uống rượu” do khôn ngoan làm ra. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephêsô phải biết sống như những người khôn ngoan bằng cách theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho con người bí quyết để được trường sinh bất tử: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Vì trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu mang hai bản tính: Thiên Chúa và nhân loại. Bản tính Thiên Chúa không chết mà là trường sinh bất tử. Bản tính nhân loại chết khi Chúa Giesu tắt thở trên Thánh Giá, nhưng được phục sinh ngay vì bản tính Thiên Chúa.  Người rước Mình và Máu Đức Kitô cũng mang hai sự sống thể lý và thần linh. Hai sự sống này không tiêu diệt nhau nhưng bổ xung cho nhau.

        Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta trường sinh bất tử. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài, bánh hằng sống.

        Ăn thịt Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(8-18-2024)

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN

BÁNH THẦN LINH

     Đời sống con người có ít nhất hai chiều kích: thể lý và tinh thần. Khi thân xác mệt mỏi và đói khát, con người không còn sức lực để làm việc; vì thế họ cần ăn uống và nghỉ ngơi để lấy sức. Khi tinh thần chán nản đến độ tuyệt vọng, con người mất hết ý chí để sống, họ chỉ muốn chết. Làm sao con người có thể phục hồi tinh thần để tiếp tục bước tới?

     Các bài đọc hôm nay chú trọng đặc biệt tới lương thực thần linh, những gì có thể giúp con người sống dồi dào và sống muôn đời. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elia cảm thấy chán nản đến tuyệt vọng; vì sau khi đã cố gắng rao giảng và làm nhiều phép lạ; vua quan và con cái Israel vẫn quay lưng lại sự thật, lại còn nghe lời hoàng hậu Ideven để lấy mạng sống của ông. Thiên Chúa sai thiên thần mang bánh và nước tới để giúp ông phục hồi nghị lực. Sau khi dùng lương thực hai lần, ông chỗi dậy và đi bộ một mạch 40 ngày đêm tới núi Horeb, để gặp gỡ Thiên Chúa. Trong bài đọc II, thánh Phaolo khuyên nhủ các tín hữu Epheso hãy loại trừ lối sống theo xác thịt và mở lòng lãnh nhận lối sống theo Thánh Thần, mà Đức Kito đã xin Chúa Cha gởi tới tâm hồn các tín hữu.

             Trong bài Phúc Âm, khi Chúa Giesu tuyên bố Ngài là bánh từ trời xuống để đem lại sự sống trường sinh cho nhân loại; người Do Thái xầm xì chống đối, không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng: làm sao ông này có thể  là bánh hằng sống từ trời xuống được? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ. Tại sao ông ta dám tuyện bố như thế? Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa.  Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.

     Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ Mình Thánh Chúa thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình. Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn Mình Thánh Chúa sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay: “Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời”.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(8-11-2024)

CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN

LƯƠNG THỰC CHÚA BAN

     Cám dỗ về bánh ăn luôn là một diệu kế ma quỉ dùng để cám dỗ con người. Chúng đã từng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, khi Ngài ăn chay 40 ngày trong sa mạc: “Hãy biến những hòn đá thành của ăn.” Chúa trả lời: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúa muốn con người nhận ra chân lý: “Bánh cần thiết, nhưng không phải tất cả.” Nếu con người chú trọng đến bánh quá nhiều, con người sẽ phát sinh nhiều bệnh: cả phần hồn lẫn phần xác.

        Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật hai thực tại: lương thực mau hư nát và lương thực trường tồn. Trong Bài Đọc I, con cái Israel kêu trách Thiên Chúa vì họ bị đói và khát trong sa mạc. Thiên Chúa cho họ có manna từ trời rơi xuống ban sáng, và có thịt chim cút lúc ban chiều. Họ có thể ăn uống thỏa thuê; nhưng không được họ tích trữ. Ngài truyền chỉ lấy lương thực đủ cho ngày đó; nếu tham lam tích trữ, manna sẽ hư hại hôm sau.

     Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô phân biệt hai lối sống: Dân Ngoại sống theo tư tưởng phù phiếm: họ chỉ biết ra công làm việc để có của ăn hư nát và hưởng thụ; ngược lại, các tín hữu phải sống theo Thánh Thần và tuân theo những lời chỉ dạy của Đức Kitô, để có lương thực trường tồn.

          Trong Phúc Âm, dân chúng đi kiếm Đức Kitô sau khi đã được Ngài làm phép lạ cho ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu biết rõ họ tìm kiếm Ngài chỉ vì lý do đó; nên Ngài khuyên họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh.” Lương thực mau hư nát ai cũng có thể hiểu được: ngoài đồ ăn thức uống, còn có thể hiểu là những giá trị chóng qua của thế gian như: tiền bạc, của cải, thú vui, danh vọng, chức quyền … Về lương thực mang lại giá trị vĩnh cửu, chúng ta phải học hỏi hết chương 6 của Gioan trong ba tuần kế tiếp. Một cách tổng quát, Chúa Giêsu muốn đề cập đến hai điều căn bản là Lời Chúa và Mình thánh Chúa.

     Hai của ăn thần linh này, mang lại cho các tín hữu sự sống muôn đời, như thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu : “Chỉ có Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), hay như lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời… Đây là Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Mỗi ngày chúng ta nên tham dự thánh lễ để đón nhận được hai thứ lương thực thiêng liêng của Đức Giêsu ban cho là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, để có sự sống muôn đời.

     Lạy Chúa, của cải vật chất và cơm ăn áo mặc là những nhu cầu không thể thiếu của thân xác con người. Ma quỷ thường cám dỗ lôi kéo chúng con tìm kiếm chúng thay vì phải tìm kiếm Chúa mới thực là lẽ sống cuộc đời của con. Xin cho chúng con đừng quá mải mê tìm kiếm những của cải vật chất đến nỗi chẳng còn thiết tha với việc cầu nguyện, dự lễ và tuân giữ các giới răn. Xin Chúa thương tha thứ tội lỗi và bù đắp những thiếu sót của chúng con.

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(8-4-2024)

CHÚA NHẬT 17 TN

Quyền năng Thiên Chúa và sự chia sẻ của con người.

            Ca dao Việt-nam có câu: “Ở đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.” Tư tưởng này rất gần với quan niệm của người Công Giáo: Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất và ban cho mọi người cùng hưởng. Ngài muốn con người san sẻ cho nhau để đừng có cảnh người quá giàu trong khi người khác không có của ăn. Để làm được điều này, ca dao Việt-nam đòi con người phải có nhân đức anh hùng. Đó là tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và dám chia sẻ cho tha nhân những gì mình có.

            Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai tư tưởng này. Trong Bài Đọc I, tiên tri Elisha truyền tiểu đồng phát quà tặng dân chúng mang đến cho ông, mặc dù chẳng thấm vào đâu; nhưng Đức Chúa đã cho toàn dân ăn no. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu bảo vệ sự hiệp nhất mà họ đã được kêu gọi bằng cách ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, và bác ái. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi năm ngàn người đàn ông ăn và còn dư thừa 12 thúng, từ năm chiếc bánh và hai con cá.

         1/ Con người phải tin nơi quyền năng của Thiên Chúa: trong biến cố Vượt Qua dân Do-thái nhớ lại uy quyền lớn lao của Thiên Chúa đã mang dân vượt Biển Đỏ an toàn; trong khi quân đội của vua Pharao bị nhận chìm giữa lòng đại dương. Nếu một Thiên Chúa có quyền năng đưa dân Do-thái vượt qua Biển Đỏ, Ngài cũng có thể làm cho dân có bánh ăn no nê trong sa mạc, điều bị coi là không thể đối với con người. Nếu Chúa Giêsu có thể làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” để nuôi năm ngàn người đàn ông ăn no nê, Ngài cũng có thể hiến thân mình để trở nên của ăn nuôi dân hàng ngày. Đây là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể.

         2/Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người: Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng Ngài muốn con người biểu lộ niềm tin giống như em bé sẵn sàng đưa cho Chúa 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá để chia sẻ với mọi người. Khi linh mục dâng bánh và rượu lên cho Thiên Chúa, người linh mục cũng dâng những đau khổ của chính mình và của dân chúng, cộng với lễ hy sinh đau khổ của Đức Kitô. Tất cả những điều này có sức mạnh để Thiên Chúa chấp nhận và sinh ích cho con người.

         Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những khó khăn và bất hạnh của tha nhân. Phần đóng góp của chúng con có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người đau khổ, một ly nước lã hay một chén cơm cho người đang đói khát; một manh áo cũ cho người không có áo che thân; một lời động viên an ủi cho người đang bị hiểu lầm và đối xử bất công; một sự khoan dung tha thứ đối với những kẻ đang để tâm thù ghét làm hại chúng con... Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm vui lòng một người, mỗi ngày làm ít nhất một việc thiện…, để trở thành tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” .

Lm Joseph Nguyễn Thái

(7-28-2024)

CHÚA NHẬT 16 TN

HY VỌNG TRONG THẤT VỌNG

            Trong cuộc đời, có những lúc con người cảm thấy lo âu, sợ hãi, chán nản đến tuyệt vọng, vì phải đương đầu với quá nhiều vấn đề: căng thẳng, chia rẽ, hận thù, bất an … Thiên Chúa muốn con người phải tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Ngài, và Đức Kitô là nguồn hy vọng của mọi người, là giải pháp của mọi vấn nạn của cuộc đời. Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: chỗ nào có lo âu, thất vọng, chỗ đó có hy vọng và giải quyết tuyệt vời của Thiên Chúa.

     Trong Bài Đọc I, tiên tri Gieremiah tường thuật nguy hiểm của các chủ chăn vô trách nhiệm làm chiên lạc bầy và niềm hy vọng có được Người Mục Tử Nhân Lành sẽ đến chăm sóc và quy tụ chiên về. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô tường thuật sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, giữa Do-thái và Dân Ngoại; và niềm hy vọng Thánh Giá sẽ hòa giải những mối xa cách thù địch này. Trong Phúc Âm, các tông đồ làm việc quá tải mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu săn sóc đoàn chiên. Chúa Giêsu bảo các ông hãy lui vào trong nghỉ ngơi để chính Ngài dạy dỗ và săn sóc dân chúng, để Ngài giải quyết  khi có sự căng thẳng nguy hiểm giữa chủ chăn và đòan chiên:   1-Quá tải của sứ vụ tông đồ: vì quá đông dân chúng, các tông đồ làm việc “cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa.” Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, làm sao các tông-đồ có thể đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng? Làm sao các ông có thể thăng bằng giữa đời sống cá nhân với mục vụ tông đồ?

     2-Chiên vất vưởng không người chăn: “Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.” Làm sao để có đủ mục tử chăm sóc cho dân khi càng ngày càng ít người đi tu? Xã hội càng tiến bộ, đời sống luân lý và gia đình càng sa sút. Làm sao kiếm được các thợ rành nghề để săn sóc dân chúng?

     Giải pháp là chính Chúa Giêsu là niềm hy vọng giải quyết cho cả hai bên, các mục tử và đoàn chiên:

     1-Người tông-đồ phải có thời giờ nghỉ ngơi với Đức Kitô: Chúa Giêsu nhận ra sự bận rộn trong công tác mục vụ của các tông-đồ. Để tránh cho các ông nguy cơ bị “làm việc quá độ,” chính Ngài đi tìm chỗ nghỉ cho các ông.

     2-Người dạy dỗ họ nhiều điều: Không phải chỉ có các mục tử là người chủ chăn, Đức Kitô là Mục Tử Tốt Lành và trên hết. Chính Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, và bảo vệ dân chúng, như trình thuật hôm nay: “Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”

     Bài học áp dụng cho chúng ta hôm nay là Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành: tất cả chúng ta hãy học hỏi, đặt trọn niềm tin tưởng,  và niềm hy vọng nơi Ngài. Cha mẹ hay cha xứ đều là các mục tử chăm sóc những chiên của Thiên Chúa. Trên hết mọi sự, người mục tử phải dạy cho dân biết và quí mến Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đều là các chiên của Thiên Chúa. Chúng ta phải học biết về Đức Kitô và cầu nguyện cho các mục tử của mình. Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta đang cầu nguyện cho chính chúng ta. 

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(7-21-2024)

CHÚA NHẬT 15 THƯờNG NIÊN

Ơn gọi của con người

Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó, con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.

         Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác, có 2 điều  quan trọng khi rao giảng:

            (1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”

            Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.

            (2) Mục tiêu của việc rao giảng là “kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” Khi người môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra tình yêu Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này, để họ ăn năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải trí, làm cho con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không phải là lúc để người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình. Và các quyền trừ quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng. Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế việc rao giảng Tin Mừng.

            Áp dụng trong cuộc sống: tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi người.

            Lm Joseph Nguyễn Thái

(7-14-2024)

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN

Những ngăn cản không nhìn ra sự thật.

Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.

Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào Chúa.  Phải, Đức Kitô đã chuẩn bị cho người đồng hương những yếu tố quan trọng để họ tin vào Ngài.

1-Ngài cho họ cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở về quê quán, đến với họ, giảng dạy trong hội đường của họ.

2-Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt lên: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?”

3-Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”

Nhưng người đồng hương đã không nhận ra Đức Kitô! Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải nhận xét và đánh giá vào chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria… sao? Chị em của ông… lối xóm với chúng ta sao?” Một ví dụ cụ thể là, sau 1975,  chúng ta thường nói khôi hài: “học tài thi lý lịch.” Thay vì chấm điểm thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình “tư sản mại bản;” họ sẽ bị đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.

Áp dụng bài học này, chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của mình. Khi phải phán đoán, hãy nhìn vào biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì đến biến cố đó. 

Lm Joseph Nguyễn Thái

(7-7-2024)

CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN

QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA

Theo Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Ngài mong muốn cho mọi loài tồn tại; nhưng con người luôn phải đương đầu với đủ loại đau khổ và cái chết. Câu hỏi được đặt ra: Đâu là nguyên nhân của đau khổ và cái chết? Sách Sáng Thế tường thuật biến cố cám dỗ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì con người lạm dụng quyền tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa và nghe lời quỷ dữ, nên tội lỗi và sự chết đã đột nhập vào thế gian và tác hại trên con người.

        Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh ý hướng và quyền năng của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và quan phòng vũ trụ. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành và tiền định cho muôn loài được trường tồn; nhưng quỉ dữ cám dỗ con người và là nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Corintô giúp đỡ Giáo Hội tại Jerusalem để duy trì sự sống trong trận đói đang xảy ra tại đây. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có toàn quyền trên đau khổ và sự chết qua việc chữa lành người phụ nữ bị loạn huyết và cho con gái ông Jairus sống lại. 

          Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: ”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.

         Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.

Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Phải, cuộc đời chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(6-30-2024)

CHÚA NHẬT 12 TN

UY QUYỀN CỦA THIÊN CHÚA

Con người đã tiến bộ rất nhanh vế các nghành hàng không (máy bay, phi thuyền, vệ tinh nhân tạo), hàng hải (tàu ngầm, chiến hạm, thương thuyền, du thuyền), đường bộ (xe hơi, điện tử …); nhưng khi phải đương đầu với núi lửa, động đất, bão táp, hay sóng gió: con người phải bó tay đầu hàng. Dù con người biết sáng chế ra những dụng cụ để biết trước khi nào các thiên tai xảy ra và cường độ mạnh thế nào; nhưng con người vẫn không tìm ra cách ngăn cản để những thiên tai đừng xảy ra.

         Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng uy quyền của Thiên Chúa trên gió bão và biển cả. Trong Bài Đọc I, ông Gióp trăn trở với câu hỏi tại sao người lành như ông phải chịu đau khổ, nên đã muốn có được câu trả lời từ Thiên Chúa. Để trả lời ông, Thiên Chúa muốn ông suy nghĩ về uy quyền Thiên Chúa trên gió bão và biển cả. Đây mới chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ dẫn chứng uy quyền về sự quan phòng của Thiên Chúa mà trí óc con người không sao hiêu được. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô cho chúng ta một điều vĩ đại con người không thể hiểu được là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua Đức Kitô. Tình yêu này có sức biến đổi con người thành những tạo vật mới để có thể đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa mà sức riêng con người không thể đáp ứng. Trong Phúc Âm, Các môn đệ kinh ngạc đến độ sững sờ, vì họ không thể nào ngờ chỉ một lời truyền của Chúa Giêsu mà trận cuồng phong dữ dội của biển cả phải im lặng như tờ. Chúa Giêsu nhắc nhở cho họ biết: họ cần có một đức tin vững mạnh trong những cơn phong ba bão táp như vậy.

Khi con người phải đương đầu với sợ hãi, sóng gió, và lo âu của biển đời: Rất nhiều tác giả đã ví cuộc đời con người như chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả, và sóng gió bão táp như những nghịch cảnh mà con người phải đương đầu với như: chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, đói khát, chia ly, bắt bớ, hiểu lầm. Làm sao con người có sức mạnh để đương đầu với những phong ba bão táp của biển đời?

Trước tiên chúng ta cần có một thái độ tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì Ngài đã từng căn dặn các môn đệ: “Can đảm lên, đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian.” Không có một quyền lực nào của ma quỉ hay của thế gian có thể chiến thắng nổi quyền lực của Thiên Chúa. Thứ đến, chúng ta phải trông cậy hoàn toàn vào sự yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Ngài biết tất cả những gì chúng ta đang quan tâm, lo lắng; và như người Cha, Ngài sẽ lo liệu và ban những ơn cần thiết cho chúng ta, cho gia đình, và cho những người chúng ta cầu nguyện cho. Chỉ có một điều chúng ta cần làm là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu thương tha nhân như yêu chính mình. Phần còn lại, Chúa sẽ lo liệu như thánh vịnh đã nói:   “Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng  Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.  Họ vui mừng vì trời yên bể lặn. Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.”  (Tv 107, 29-30)

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(6-23-2024)

CHÚA NHẬT 11 TN

NGƯỜI GIEO GIỐNG

     Năm 1960, gia đình tôi ở Sông Bé, tỉnh Đồng Nai. Đằng trước nhà, có một cây cổ thụ rất lớn. Bóng mát của nó như chiếc dù che nắng mưa cho tôi chơi suốt cả ngày. Qua một cơn bão, cây cổ thụ bị bật gốc, thế là phải chặt đi, tôi chơ vơ giữa trời. Sau này khi lớn lên, lúc bố tôi mất, tôi nhớ lại cây cổ thụ ngày xưa chính là hình ảnh của ông, và cảm giác bơ vơ giữa chợ đời thật thấm thía như tục ngữ đã nói: “Con có cha như nhà có nóc. Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.” Mất cha, tôi thiếu người định hướng cho đời mình!

     Hôm nay cả nước Hoa Kỳ Mừng Ngày Của Cha – Father’s Day. Ông David Blankenhorn, một người tiên phong kêu gọi xây dựng lại nền tảng đạo đức tại Hoa Kỳ, đưa ra lời nhận định như sau: “Tình trạng thiếu vắng người cha trong gia đình là một khuynh hướng lan tràn nguy hại nhất của thời đại chúng ta. Nó là nguyên nhân chính, dẫn đến sự sa sút và tình trạng tồi tệ của thanh thiếu niên ngày nay. Nó cũng là động cơ đưa đến những vấn nạn xã hội khẩn trương nhất, từ phạm pháp cho đến nạn mang thai dưới tuổi vị thành niên, từ lạm dụng tình dục trên trẻ con cho đến những bạo hành trên người phụ nữ trong gia đình”. Thật vậy, thống kê cho thấy: 85% trẻ em không tự chủ trong hành vi, xuất thân từ các gia đình không có cha; 71% trẻ em bỏ học đến từ gia đình không có cha; 75% thiếu niên trong các trung tâm cai nghiện đến từ gia đình không có cha; 70% tù phạm thiếu niên đến từ gia đình không có cha; 85% thanh niên trong tù đến từ gia đình không có sự hiện diện của người cha; 80% tội nhân đã hiếp dâm để trút đổ lòng căm thù, đến từ các gia đình không có tình thương của cha; 90% trẻ em lang thang, vô gia cư, vô nghề nghiệp là những đứa trẻ không có cha. Dựa trên thống kê này, người ta đưa ra so sánh giữa trẻ em có cha bên cạnh và không có cha như sau: trẻ em không cha có khuynh hướng mất tự chủ gấp 20 lần, bỏ học gấp 9 lần, khuynh hướng sử dụng chất kích thích gấp 10 lần, khuynh hướng bị vào tù gấp 20 lần, khuynh hướng hiếp dâm gấp 10 lần, khuynh hướng trốn nhà ra đi gấp tới 32 lần.

     Có sự trùng hợp ý nghĩa giữa nội dung của dụ ngôn Người Gieo Giống (Mc 4:26-34) và Ngày của Cha. Người cha chính là người gieo giống có bổn phận phải gieo những hạt giống của sự sống, đức tin, đạo đức, bác ái, yêu thương và Tin Mừng hy vọng vào trong lòng của con cái mình. Người gieo giống gương mẫu là Đức Giêsu Kitô. Ngài là Người đã gieo hạt giống Tin Mừng Nước Trời vào trong thế gian này rồi, thì chính Ngài cũng phải chờ đợi trong kiên nhẫn, khiêm nhường, và hy vọng. Đó là những đặc tính rất cần thiết cho các nhà giáo dục, các thầy cô giáo, các vị thừa sai, và các bậc cha mẹ. Chúng ta phải học sự kiên nhẫn từ việc quan sát thiên nhiên. Mọi sự vật phải có thời gian để trưởng thành. Và chúng cũng cần thời gian để chín mùi. Đối với thiên nhiên không thể thúc bách, ép buộc cho vượt thời gian được. Mọi sự đều có mùa, có giai đoạn để phát triển. Công việc của chúng ta là cứ gieo hạt giống tốt. Thiên Chúa sẽ nối tiếp với ân sủng quyền năng vô hạn. Hãy kiên nhẫn, chờ đợi, phó thác và hy vọng. Happy Father’s Day!

     Lm Joseph Nguyễn Thái.

(6-16-2024)

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN

BA THÙ: THẾ GIAN, XÁC THỊT, QUỶ THẦN

     Cuộc đời là một bãi chiến trường với 3 kẻ thù vô cùng nguy hiểm: quỷ thần, thế gian và xác thịt. Các tín hữu cần tĩnh thức đề phòng, luyện tập nhân đức, cầu nguyện không ngừng và năng chịu các bí tích để lấy lại sức mạnh của ơn thánh thì mới mong chống lại 3 kẻ thù vô cùng nguy hiểm này.

Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận diện 3 kẻ thù với các cám dỗ tinh vi của chúng. Trong bài đọc I, tổ tiên loài người đã sa chước cám dỗ của con rắn, hình ảnh của Satan; vì bà Eva muốn được bằng Thiên Chúa. Bà đã bất tuân Thiên Chúa và ăn trái cây Ngài cấm, để tự mình có khôn Ngoan biết lành biết dữ mà không cần sự dạy bảo của Ngài. Trong bài đọc II, trái với quan niệm của người Hy Lạp khinh thường thân xác, để rồi tự do phạm tội, thánh Phaolo đã nhận ra giá trị cứu độ của thân xác. Thiên Chúa muốn con người dùng thân xác Ngài ban để làm việc, để hy sinh chịu đựng gian khổ và cho việc loan báo Tin Mừng Cứu Độ tới mọi người. Trong bài Phúc Âm, những người thế gian không hiểu nổi sứ vụ cứu độ của Chúa Giesu, nên đã coi Ngài như người bị mất trí, như người bị tướng quỷ Beendebun ám.

     1-Cám dỗ của quỷ thần:

     Ngay sau khi ăn trái cấm ông Adong và bà Eva đã tìm cách lẩn trốn Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người xa cách Thiên Chúa và tiến gần tới ma quỷ. Và mối liên hệ giữa hai ông bà không còn tốt đẹp như xưa. Ông đã đổ lỗi cho bà và đổ lỗi cho Thiên Chúa vì đã dựng nên bà. Còn bà thì nhận ra nguyên nhân của tội là chước cám dỗ của quỷ dưới hình con rắn tinh khôn đã lừa dối bà. Hai ông bà đã phải chịu hậu quả của tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã có một kế hoạch để cứu chuộc con người qua việc hy sinh Đức Kito, Người Con Một của Ngài.

     2-Cám dỗ xác thịt :

     Người Hy Lạp cho thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn con người, vì thế, họ phải tìm đủ mọi cách để giải thoát linh hồn bất tử ra khỏi thân xác con người. Có người còn lạm dụng thân xác để tha hồ phạm tội, vì thân xác chẳng có lợi lộc gì cho họ. Thánh Phaolo phản đối quan niệm này, và tin rằng thân xác của con người được Thiên Chúa tạo dựng là cho một mục đích. Chính Đức Kito, Con Thiên Chúa, đã nhập thể, dủng thân xác hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, để chuộc tội cho loài người. Noi gương Chúa Kito, Phaolo dùng thân xác để hy sinh chịu mọi gian khổ, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho muôn người.

     3-Cám dỗ thế gian :

     Thân nhân coi Người mất trì vì từ bỏ mọi ảnh hưởng của thế gian. Không nhà ở, không tài sản, không nghề nghiệp. Kết thân với người nghèo, người tội lỗi. Đương đầu với người quyền lực… Chúa Giesu đã loại bỏ tất cả những điểm tựa thế gian, để con người có thể dựa vào đó mà nhận họ là người nhà của Chúa. Nhưng chỉ giữ lại điều kiện duy nhất là nghe và thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Mẹ Maria và các môn đệ là người nhà của Chúa vì họ luôn thực thi ý muốn của Thiên Chúa.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(6-9-2024)

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA

Mỗi năm, tại các quốc gia trên thế giới, người ta thường có một ngày đặc biệt (Memorial Day) để tưởng nhớ các chiến sĩ đã bỏ mình vì chính nghĩa. Đây là những con người đã hy sinh bản thân bằng cách đổ máu, để bảo vệ tổ quốc và dân lành khỏi kẻ thù. Ngày Lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta cũng dành để tưởng niệm Đức Kitô, không những đã hy sinh thân mình và đổ máu cứu con người khỏi chết, cho con người được sống đời đời, mà còn muốn ở với con người mọi ngày cho đến tận thế, qua việc thiết lập Bí-tích Thánh Thể. Ngài làm chuyện này vì yêu thương con người.

       Các Bài Đọc hôm nay tường thuật tình yêu Thiên Chúa qua các việc Ngài làm để cứu chuộc con người. Trong Bài Đọc I, vì con người không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, nên để được tha tội, con người cần dâng các súc vật. Máu của các súc vật đổ ra để cho con người khỏi chết và được sống. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh lễ vượt qua và giao ước Sinai được thực hiện qua ông Moses, với lễ vượt qua và giao ước mới, được thực hiện qua Đức Kitô. Ngài là Bánh Không Men và Chiên Vượt Qua của giao ước mới, sẵn sàng hy sinh để chết thay cho con người, và làm cho họ được sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thành Jerusalem để chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Đang khi dùng bữa, Ngài đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể để hiến Mình và Máu cho con người được sống cả đời này và đời sau. Ngài cũng truyền cho các môn đệ phải làm những điều đó thường xuyên để tưởng nhớ đến Ngài.

Lễ Vượt Qua của Đức Kitô có bối cảnh lịch sử từ Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Trong biến cố Vượt Qua này, Thiên Chúa giải thoát dân tộc Do-thái khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập, và đem họ vào vùng Đất Hứa tràn trề sữa và mật. Chúa Giêsu cũng ví Cuộc Thương Khó của Người như một vượt qua. Trong Lễ Vượt Qua cũ, bánh không men và chiên vượt qua là hai thứ không thể thiếu để mừng lễ: máu chiên dùng để bôi trên cửa nhà, để thiên thần vượt qua mà không vào sát hại như sát hại các con đầu lòng của người Ai-cập. Trong Lễ Vượt Qua mới, bánh không men chính là Mình Chúa Giêsu, cũng đã giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết bằng chính Mình và Máu của Ngài. Sau khi ăn Lễ Vượt Qua, người Do-thái phải lên đường bắt đầu cuộc hành trình qua Biển Đỏ. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng thế, sau khi đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể, Ngài và các môn đệ ra núi Olive để cầu nguyện và chịu thử thách.

Cuộc sống của mỗi người cũng thế, sau khi đã lãnh nhận thần lương của Bí-tích Thánh Thể, chúng ta cũng phải bước vào cuộc đời để đương đầu với những khó khăn và thử thách hằng ngày của cuộc sống như: bệnh tật, học hành và công việc, bất đồng, hiểu lầm, chia rẽ, và hận thù đến từ các mối liên hệ với tha nhân… Chính sự sống thần linh nhận được từ Bí-tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta có đủ sức mạnh và nghị lực, để vượt qua tất cả các khó khăn này. Nếu không năng lãnh nhận thần lương, làm sao chúng ta tìm được sức mạnh để vượt qua các khó khăn của cuộc sống?

Lm Joseph Nguyễn Thái

(6-2-2024)

LỄ CHÚA BA NGÔI

        Vua David, tác giả Thánh Vịnh 8, sau khi đã suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa và sự bất xứng của con người, đã phải thốt lên: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” Không phải chỉ có một ngôi, mà cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng cộng tác để lo liệu cho con người. Điều này nhắc nhở cho con người biết họ có địa vị cao quí trước Thiên Chúa; và phải biết sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa.

           Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, ông Moses nhắc lại hai đặc quyền mà dân tộc Israel được hưởng: Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng và ban Thập Giới cho họ. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu đặc quyền được làm con Thiên Chúa qua niềm tin vào Đức Kitô, và họ sẽ được thừa hưởng gia tài của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền…Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay là một dịp để chúng ta nhắc lại bí tích Rửa tội. Nhờ phép Rửa, chúng ta được tẩy sạch tội nguyên tổ và tội riêng đã phạm, được ơn thánh hoá, được nhận làm con Chúa, được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.  Ngày lễ nhắc nhở chúng ta hãy trung thành với Chúa, thi hành những điều đã hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng; đồng thời nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta luôn sống trong tình con thảo với Chúa để có thể thưa với Ngài :”Abba, Cha ơi”.

        Nhờ phép Rửa và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần chúng ta được nhận làm con Chúa. Đã là con thì chúng ta được thừa hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm con Chúa, nhất là chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh của Chúa. Đấy là một vinh dự lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta vì Đức Chúa Cha bởi yêu thương đã dựng nên loài người và tôn lên làm con Ngài để có quyền thừa kế Nước Trời.

        Khi đã trở thành người con Chúa chúng ta được tham dự vào đời sống của Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có Chúa ngự trong mình vì Chúa đã nói: ”Ai yêu mến Thầy và tuân giữ các lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến nó, chúng ta sẽ đến ở trong nó và chúng ta sẽ lập cư trong nhà nó”(Ga 14,23). Thánh Phaolô cũng xác quyết: ”Anh em lại không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ở trong anh em sao”?(1Cr 3,16-17). Các thánh đã sống mầu nhiệm này một cách hết sức ân cần và thân mật. Việc Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn đã ghi sâu vào tâm trí các ngài và làm cho các ngài không bao giờ cảm thấy cô đơn lẻ loi. Thánh Têrêsa Hài đồng đã nói: ”Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, Chúa trở nên tù nhân bị giam hãm trong tâm hồn con”.

Lm Joseph Nguyễn Thái.

(5-26-2024)

CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

        Thánh Thần là Thiên Chúa bị bỏ quên. Để trắc nghiệm, chúng ta thử coi mình có nói về Thánh Thần được hơn 5 phút không! Thời đại của chúng ta, thời đại từ khi Chúa Giêsu về trời cho đến Ngày Tận Thế là thời đại của Thánh Thần; thế mà chúng ta lại biết rất ít về Ngài. May mắn thay, Giáo Hội dùng ngày hôm nay để giúp chúng ta ôn lại giáo lý về Chúa Thánh Thần.

         Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của Ngôi Ba Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật Thánh Thần hiện xuống và đậu lại trên mỗi Tông-đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đề cập đến những công việc của Thánh Thần làm nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo Hội. Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một Phép Rửa, và một tình yêu; vì tất cả đều hoạt động trong cùng một Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc sở hữu bình an và quyền tha thứ cho con người.  

1/ Thánh Thần và bình an: Thánh Thần làm cho các môn đệ nhận ra tất cả sự thật liên quan tới Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, trước khi các ông có bình an. Đây mới là sự bình an thật sự, vì nó đến từ sự xác tín của niềm tin trong tâm hồn con người. Trình thuật kể các Tông-đồ sợ sệt phải đóng kín cửa vì sợ người Do-thái; nhưng một khi các ông đã nhìn thấy Chúa toàn thắng tử thần và phục sinh vinh hiển, và được Thánh Thần giúp nhớ lại và hiểu biết những gì Chúa Giêsu đã nói trước, các ông mở tung cửa ra đi loan báo Tin Mừng, và can đảm đối chất với những người Do-thái trong Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần nhìn đời sống các Tông-đồ trước và sau biến cố Phục Sinh, chúng ta nhận ra sức mạnh của Thánh Thần hoạt động nới các Tông-đồ.

2/ Thánh Thần và tha thứ: Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Một sự nhìn lại 4 phần chính của Bí-tích Giải Tội cho chúng ta thấy vai trò của Thánh Thần trong việc tha thứ các tội của con người: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội, đền tội và sửa chữa khuyết điểm.

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

        -Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn, như thánh Phaolô nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần;” và chúng ta phải cầu nguyện thường xuyên với Ngài, nhất là những giờ phút nghi ngờ, do dự, và không biết quyết định làm sao.

         -Chúng ta không thể hiểu biết và nhận ra sự thật của Thiên Chúa nếu không nhận được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện với Ngài trên đường đi tìm sự thật.

          -Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách quét sạch những xấu xa, tội lỗi; và làm đầy tâm hồn bằng sự thật và ân sủng. Ngài cũng giúp chúng ta có sức mạnh và can đảm làm chứng cho Thiên Chúa. 

Lm Joseph Nguyễn Thái.

(5-19-2024)

CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI   

 

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, Thánh Lucas tường thuật hai biến cố: Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ phải ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cầu nguyện để các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải rao giảng Tin Mừng, và Ngài ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời các ông rao giảng. Vậy thì có hai điều chính chúng ta cần tìm hiểu trong ngày lễ ngày Hiền Mẫu và Chúa lên trời:

1-Thiên đàng ở đâu? Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đầy yêu thương, hoan lạc bình an và hạnh phúc. “Thiên đường ở dưới chân các bà mẹ.” (Kinh Coran). Thiên Đàng không phải ở đâu xa, mà ở đâu có tình yêu, có hòa bình, không chém giết hận thù nhau, mọi người sống chung hòa hợp và hạnh phúc thì nơi đó là Thiên Đàng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm về triều đại hòa bình của Đấng Thiên Sai: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau….Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang…” (Is 11,6-9).  Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng đời sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Tóm lại, Nước Trời hay Thiên Đàng có thể không ở đâu xa, mà ở trong lòng mỗi người, trong cộng đoàn ta đang sinh hoạt. Ai yêu thương thì người ấy đang sống trong Nước Trời hay đang hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Còn ai không yêu thương sẽ bị loại ra ngoài Nước Trời, “Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,50).

2- "Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". "Thọ tạo" nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú... Tóm lại là tất cả. Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển…Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi. Và đó cũng là vai trò của các bà mẹ đang thể hiện hiện nay trong tất cả các gia đình. Nhân ngày Hiền Mẫu, chúng ta biết ơn, cầu nguyện và vinh danh tất cả những người mẹ đã sinh ra và mang lại cho chúng ta thiên đàng ngay tại thế gian này. Happy Mother’s Day.

Lm Joseph Thái Nguyễn

(5-12-2024)

CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH

Thiên Chúa là tình yêu.

Thiên Chúa, chưa ai thấy bao giờ, nói về tình yêu của Đấng vô hình chúng ta chưa thấy bao giờ, lại còn khó khăn và trừu tượng hơn nữa.  Nhưng may mắn cho con người, Thiên Chúa đã chọn cái cách để bày tỏ tình yêu cho con người qua việc tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, và thánh hóa con người.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh các công việc Thiên Chúa dùng để bày tỏ tình yêu của Ngài. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài cho Cornelius, viên sĩ quan dân ngoại, qua việc cho ông cơ hội để gia nhập đạo thánh Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan sau khi định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” đã dẫn chứng tình yêu này qua việc Thiên Chúa ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài. Trong Phúc Âm, tình yêu Thiên Chúa được lan tràn qua Chúa Giêsu và đổ xuống trên các môn đệ của Chúa. Trước khi các môn đệ có thể yêu thương tha nhân, họ phải ở lại và được thấm nhuần tình yêu này. Ở đây chúng ta thấy có 2 điều:

1-Giới luật yêu thương: Thiên Chúa là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, lan truyền qua Chúa Con, và được trao tặng cho các tông đồ như Chúa đã nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.”

2- Giữ các điều răn là ở lại trong tình thương Thiên Chúa: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”.

Ngài gọi các môn đệ để trở thành bạn hữu: Tình yêu đòi hỏi sự tự do và ngang hàng giữa hai chủ thể. Con người có tự do để đáp lại lời mời gọi của Ngài để làm bạn hữu với Chúa. Không những chỉ chọn con người là bạn hữu, nhưng còn là bạn nghĩa thiết tâm giao. Thông thường, con người chỉ dám hy sinh tính mạng cho người bạn nghĩa thiết. Chúa Giêsu là bạn nghĩa thiết của con người vì Ngài dám hy sinh tính mạng để cho con người không phải chết. Khác với con người chỉ có một hay vài bạn tâm giao, Chúa Giêsu muốn có rất nhiều bạn nghĩa thiết, nên Ngài mở rộng đến mọi người.

        Ngài chọn các môn đệ để được sai đi rao giảng Tin Mừng: Tình yêu Thiên Chúa không giữ lại trong một số người hay một dân tộc, nhưng luôn mở rộng và cho đi đến mọi người. Sứ vụ này vẫn tiếp tục cho đến thời đại chúng ta đang sống, và sẽ còn kéo dài cho tới Ngày Tận Thế. Ngày nay chúng ta cần ý thức sứ mạng làm chứng cho Chúa như lệnh Chúa truyền cho Hội Thánh trước khi lên trời. Làm chứng cho Chúa chỉ thực sự hiệu quả bằng các việc yêu thương cụ thể như cảm thông và tận tình giúp đỡ những người bệnh tật nghèo khổ bên cạnh, nhẫn nhịn chịu đựng những lời nói xấu của người khác, bỏ qua những lỗi lầm của kẻ khác: “biến việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành không có gì” để sống hòa thuận với anh em, dấn thân đi bước trước đến với tha nhân bằng việc năng thăm viếng những người khuyết tật, neo đơn… để động viên an ủi, chia sẻ cơm bánh tiền bạc… hầu đáp ứng các nhu cầu cấp bách của họ. Đó là một số phương cách thực hành yêu thương cụ thể theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu và Đức Maria.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(5-5-2024)

HIỆP NHẤT TRONG CHÚA VÀ GIÁO HỘI

Con người tuy có rất nhiều điểm khác biệt với nhau: niềm tin, văn hóa, hoàn cảnh, địa vị, tính tình, học thức … nhưng được kêu gọi sống chung và hiệp nhất với nhau. Làm sao con người có thể hiệp nhất với nhau giữa bao nhiêu những dị biệt này. Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những điều chính yếu để đạt tới sự hiệp nhất.

Trong Bài Đọc I, Phaolô bị mọi người nghi ngờ vì quá khứ bắt bớ đạo Chúa của ông. Barnabas đã mạnh dạn đứng ra để bênh vực và giới thiệu ông với các Tông-đồ. Sau đó, để tránh xung đột với người Hy-lạp, các Tông-đồ quyết định để Phaolô rời Jerusalem. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan nhấn mạnh đến giới răn yêu thương như một nền tảng cho sự hiệp nhất. Ngài khuyên các tín hữu đừng chỉ yêu thương bằng chót lưỡi đầu môi; nhưng phải biểu tỏ bằng hành động và bằng giữ các giới răn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc để nói lên sự liên hệ mật thiết giữa Ngài và các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành.” Để có thể sinh hoa trái, các tín hữu cần liên kết với cành; nếu không sẽ bị khô héo và chặt đi. Chúa Giêsu là trọng tâm của hiệp nhất và liên kết mọi người với Ngài và với nhau. 

Thiên Chúa là người trồng nho: Trồng nho là nghề đòi nhiều sự chăm sóc và sức lao động để sinh trái ngon ngọt. Trong lãnh vực thiêng liêng, Thiên Chúa cũng chuẩn bị tất cả: Ngài cho con người cây nho quí giá nhất là chính Người Con Một của Ngài. Bên cạnh đó, Ngài cũng chuẩn bị để con người có cơ hội nghe Lời Chúa, và ban Thánh Thần để con người có thể hiểu và tin vào Đức Kitô…

         Thân nho là Giáo Hội: Một sự so sánh với thần học thân thể của Phaolô: con người là chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu; cho chúng ta kết luận: con người là cành nho của một thân nho là Giáo Hội, với Đức Kitô là cây nho. Và có ba loại cành: 1-Cành nào gắn liền với cây sẽ sinh hoa trái. 2-Cành nào gắn liền với cây mà không sinh hoa trái cũng sẽ bị chặt đi. Có thể so sánh với 3 loại người: không nghe lời Chúa; nghe nhưng không chịu thực hành; không dám sống đức tin. 3-Cành nào lìa cây sẽ khô héo liền.

Đây cũng là hình ảnh hiệp nhất của Bí-tích Thánh Thể: Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em … vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” Làm sao chúng ta có thể ở lại hay kết hợp với Chúa? Có thể bằng việc cầu nguyện, hay bằng việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa; nhưng cách kết hợp mật thiết nhất là qua Bí-tích Thánh Thể. Qua Bí-tích này, Chúa thông ban cho chúng ta đời sống thần linh và những ơn thánh cần thiết như nhựa sống của cây, để chúng ta có thể sinh hoa kết trái bằng các việc lành, và có sức để đương đầu với thử thách của cuộc đời. Một gia đình hay cộng đòan năng lãnh nhận BTTT sẽ hiệp nhất với nhau vì được hiệp nhất trong cùng một cây. Người nào không năng lãnh nhận BTTT, họ sẽ từ từ tách biệt ra khỏi gia đình và cộng đoàn.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(28-4-2024)

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH

MỤC TỬ TỐT LÀNH

Người Kitô hữu, tuy bề ngoài cũng giống như bao nhiêu con người khác, nhưng họ có những nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi con người của họ; mà chính họ nhiều khi không ý thức là mình có hay không biết cách xử dụng chúng. Khi các tín hữu biết xử dụng các nguồn sức mạnh này, họ có thể chữa lành bệnh tật, cho người chết sống lại, khai trừ ma quỉ, vượt qua các khó khăn của cuộc sống, và đạt được đích điểm là cuộc sống muôn đời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong các nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi các tín hữu. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến Danh Đức Kitô mà các Kitô hữu tin tưởng, và mầm sống Phục Sinh mà họ đang mang trong mình. Thánh Phêrô dùng Danh Đức Giêsu Kitô để chữa lành người bại liệt, và Ngài quả quyết con người phải tin vào Danh này mới được ơn cứu độ. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan đề cập đến đặc quyền làm con Thiên Chúa của các tín hữu, và gia tài họ sẽ được thừa hưởng sau này.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành, Ngài đến để qui tụ tất cả con chiên lạc để bảo vệ chúng, và làm cho chiên được sống dồi dào. Người Kitô hữu có một người bảo vệ uy quyền, yêu thương, và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho họ. Mục Tử Tốt Lành sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đòan chiên: Trong Tân Ước, Chúa Giêsu ví các tín hữu như chiên và Ngài như người chăn chiên hay Mục Tử. Trong Cựu Ước, tiên tri Ezekiel đã ví Israel như chiên và Thiên Chúa như người Mục Tử (Eze 34). Theo tiên tri, không phải các mục tử đều tốt lành, có những mục tử trong Israel không săn sóc và hướng dẫn chiên, mà chỉ để ý đến lông chiên và thịt chiên. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa quở trách họ và Ngài muốn chính Ngài là Mục Tử để chăn dắt chiên. Ba đặc tính về Mục Tử Tốt Lành Chúa muốn nêu bật trong trình thuật hôm nay:

            (1) Sự khác biệt giữa Mục Tử Tốt Lành và người chăn chiên: Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, khi gặp nguy hiểm thì bỏ chiên mà chạy.

            (2) Mục Tử Tốt Lành biết tất cả chiên của mình: chiên biết người mục tử và người mục tử biết chiên.

            (3) Mục Tử Tốt Lành đến để tìm kiếm các chiên thất lạc và đưa về một đàn. Chiên nghe tiếng mục tử.

Nếu chúng ta chỉ có Mục Tử Tốt Lành biết yêu thương và hy sinh cho đoàn chiên thôi, điều đó chưa đủ, vì khi thế gian giết người Mục Tử Tốt Lành, đoàn chiên sẽ tan tác; nhưng chúng ta cần có một Mục Tử Tốt Lành và uy quyền, Ngài có thể tự mình sống lại và cứu đòan chiên khỏi chết. Chúa Giêsu là Mục Tử vừa tốt lành vừa uy quyền; Ngài yêu thương con người tới độ sẵn sàng hy sinh chết vì tội lỗi con người, và Ngài có uy quyền để sống lại từ cõi chết và phục hồi sự sống vĩnh cửu cho con người. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn.

Linh mục Joseph Thái Nguyễn

(21-4-2024)

Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.

Đức Giêsu Kitô có sống lại thật không? Câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng, vì nó sẽ xác định niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa và vào cuộc sống đời sau. Thánh Phaolô xác quyết: Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích. Làm sao để biết Đức Kitô có sống lại thật không? Sự kiện tìm thấy ngôi mộ trống với các khăn liệm để lại không đủ bằng chứng để một người tin Chúa đã sống lại, vì người khác có thể đánh cắp xác Chúa và phao tin đồn thất thiệt như người Do-thái và ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu đã nghi ngờ. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thêm 3 bằng chứng hùng hồn khác về việc Chúa sống lại.

Trong Phúc Âm, thánh-sử Luca tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ với lời mời gọi hãy rờ vào thi thể của Ngài, và với việc ăn khúc cá nướng trước mắt các ông, để chứng tỏ Ngài đã sống lại thật. Bên cạnh lần hiện ra hôm nay, các thánh-sử đã tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ nhiều lần: với Mary Magdala, với các phụ nữ trên đường về từ mộ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, với 10 Tông-đồ không có Thomas, với 11 Tông-đồ có cả Thomas, với các Tông-đồ đi đánh cá; tổng cộng tất cả có ít nhất là 7 lần Chúa đã hiện ra.

Trong Bài Đọc I cũng như trong Phúc Âm, các Tông-đồ cũng như Chúa Giêsu nhắc nhở cho độc giả biết: kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Theo kế hoạch này, Đức Kitô phải chịu đau khổ (Is 52:13-53:12), chết, và sống lại (Hs 6:1-2); để gánh tội cho con người (Ga 1:29) và bảo đảm cho họ sẽ được sống đời đời (Is 49:6, Ga 6:39-40). Vì thế, thánh Phêrô quả quyết việc người Do-thái lầm lỗi kết tội Con Thiên Chúa nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình.” Điều quan trọng không hệ tại ở chỗ lầm lỡ kết tội; nhưng ở chỗ biết nhận ra tội của mình, như Phêrô kêu gọi dân chúng: “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.”

Trong Bài Đọc I và II, các Tông-đồ và các tín hữu đã can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã nhân danh Đức Kitô rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh, cuộc sống huynh đệ bỏ mọi sự làm của chung của các cộng đoàn tiên khởi, sự phát triển và vững bền của Giáo Hội hơn 2,000 năm qua với hàng triệu thánh nhân đã làm chứng cho Chúa, mỗi năm cả hàng trăm ngàn các anh chị em tân tòng gia nhập đạo. Với 3 bằng chứng tổng quát và hàng triệu các nhân chứng, việc Chúa sống lại là điều chắc chắn đã xảy ra, và niềm tin của chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài được đặt trên một nền tảng vững vàng, chắc chắn hơn xây nhà trên đá.  Chúng ta không bao giờ được để báo chí, dư luận, và cám dỗ thế gian, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào sự Phục Sinh của Đức Kitô và vào sự sống đời sau; vì chúng ta đã có quá nhiều bằng chứng và nhân chứng về niềm tin này.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (14-4-2024)

TÔN VINH LÒNG THƯƠNG XÓT

Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người biết tuân giữ những gì Chúa dạy.

Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài.

Trong Phúc Âm, tác giả tường thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin Chúa vẫn sống. Trong cả hai lần Chúa Giesu phục sinh đều chúc bình an cho các ông vì Chúa biết tâm trạng của các ông là hoảng hốt và lo sợ người Do Thái vào những ngày sau khi Chúa chết. Chúa biết rõ các ông đang cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”

Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.   

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY: 

            – Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô phục sinh, hãy sống những gì Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống tạm bợ và chóng qua ở đời này.

            – Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng, buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống trần gian. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ hãi gì nữa?

            – Hãy tín thác hoàn toàn nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho Đức Kitô biểu tỏ  Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

 (7-4-2024)

MỪNG CHÚA PHỤC SINH!

Để hiểu niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cần so sánh thái độ của các tông đồ: nỗi thất vọng của các ông khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu; các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết vì sợ liên lụy. Nhưng nỗi thất vọng này của các ông đã được bừng lên thành niềm hy vọng của Ngày Phục Sinh: vì Chúa sống lại, mọi biến cố của quá khứ cùng sống lại, được nhìn và mang ý nghĩa với Chúa Phục Sinh.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào các nhân chứng của Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng họ làm chứng và rao giảng. Trong Bài Đọc I, Phêrô, từ một con người chối bỏ Chúa 3 lần trong Cuộc Thương Khó của Ngài, giờ can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt mọi người. Điều đã biến đổi ông là Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, quyền lực thế gian đã không thắng nổi quyền lực Thiên Chúa, chẳng còn gì để sợ hãi nữa. Vì thế sứ vụ của các Tông Đồ là phải rao truyền Tin Mừng cho muôn dân.

Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở cho các tín hữu biết hậu quả của Mầu Nhiệm Phục Sinh mang lại: Họ mang trong mình mầm sống của Đức Kitô Phục Sinh; mầm sống này đòi hỏi họ phải luôn biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, đừng chỉ bằng lòng với những giá trị của hạ giới là của thế gian này. Họ phải sống làm sao để có ngày được cùng sống lại với Chúa Kitô phục sinh.

Trong Bài Phúc Âm, Bà Maria Magdala ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối; Bà không tìm thấy xác Chúa nên vội chạy về báo cho các môn đệ biết. Phêrô và Gioan, khi biết được, đã vội vã chạy đến mộ. Các ông thấy và các ông đã tin những gì Chúa tiên báo trước khi Ngài chịu chết. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” Bản dịch của NPVCGK dịch không chính xác, phải dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù chưa hiểu theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan muốn phân biệt hai niềm tin. Thấy và tin: đây là niềm tin thực nghiệm. Còn theo Kinh Thánh thì Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây là niềm tin dựa vào uy thế của Sách Thánh.

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

– Biến cố Chúa Giêsu Phục Sinh chứng tỏ rõ ràng cho chúng ta một điều quan trọng: chết không hết. Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta lên với Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống như không có đời sau.

– Chúa Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã phục sinh vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình yêu đáp lại tình yêu thương của Ngài.

– Hãy làm hết sức để có được mối liện hệ mật thiết và  yêu thương với Chúa Giêsu như Mary Magdala. Một khi có được tình yêu như thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa bằng cách yêu thương mọi người qua đời sống chứng nhân của ta.

     Lm Joseph Nguyễn Thái

 (31-3-2024)

LỄ LÁ

Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô

            Con người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan thiện như vậy.

            Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Trong Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày kỷ niệm Lễ Vượt Qua của Do Thái, để bắt đầu một Lễ Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha; ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết, nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai, và đưa họ về cho Thiên Chúa. Xin tóm lược một hai điểm :

-Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Chúa Giesu luôn sẵn sàng mọi sự : có một con lừa cỡi vào thành, lời tiên đoán phản bội, Ngài rất can đảm và tự tin nơi kế hoạch của Thiên Chúa.

-Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới. Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn, Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội. Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.

Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nói: “Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao”? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá! Xin cho chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (24-3-2024)

Mùa Chay 5

Vâng phục và đau khổ mang lại ơn Cứu Độ.

             Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhiều người khinh thường sự vâng phục và chạy trốn đau khổ. Nhiều người thời đại cho vâng lời là yếu đuối và mất tự do. Vì thích hưởng thụ, nên họ cũng trốn tránh mọi gian khổ và từ chối phải hy sinh cho người khác. Nhưng họ phải hiểu: Nếu một trẻ nhỏ chưa đủ trí khôn suy xét, em phải vâng lời cha mẹ để tránh được những hậu quả xấu sẽ xảy ra; tương tự như vậy cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa: vì con người không thể hiểu những bí nhiệm trong trời đất, vâng lời Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm, nếu họ không muốn gánh chịu các hậu quả không hay xảy đến. Hơn nữa, nếu cha mẹ hay những người đi trước cũng sống ích kỷ và trốn tránh đau khổ, làm sao họ có mặt trong cuộc đời, và được hưởng những tiện nghi và địa vị như họ có bây giờ.

            Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy những lợi ích do vâng lời và chịu đựng đau khổ mang lại. Trong Bài Đọc I, dân tộc Israel đã hủy bỏ giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với họ trên núi Sinai, khi họ không vâng phục Lề Luật của Thiên Chúa. Nhưng vì yêu thương nên Ngài sẽ ký kết họ một giao ước mới để giúp họ dễ nhớ và dễ làm hơn, bằng cách khắc ghi Lề Luật trong tâm trí của họ. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái xác quyết: Vì Chúa Giêsu vâng lời làm theo ý Chúa Cha và chịu đựng đau khổ, Ngài đã đem lại ơn cứu độ cho những ai vâng lời Người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đưa ra ích lợi của việc vâng lời và chịu đau khổ qua hình ảnh của hạt giống: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” Chúa dạy ta 3 điều khôn ngoan:

1-Phải chết đi mới đem lại sự sống: Con người ham sống và sợ chết; nhưng theo Luật Thiên Chúa, phải chết đi trước mới có thể sống và mang lại sự sống. Nếu một người sợ chết, họ sẽ không bao giờ biết sống; nhưng nếu một người không sợ chết, họ sẽ sống và sống dồi dào. Họ sẽ không sợ bất cứ một quyền lực nào cả.

2-Phải hy sinh cho đi mới mong được nhận lại: hy sinh cho người khác trước, và không cần trả ơn để Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời sẽ trả ơn. Những người ích kỷ chỉ biết vun quét cho mình, sẽ dần dần bị người khác nhận ra và khai trừ, và họ sẽ mất cuộc sống đời sau như lời Chúa nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

3-Phải phục vụ mới mong được quý trọng: Con người thích được phục vụ và được người khác quý trọng, nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” Họ không thể thích cả hai; nếu muốn được quý trọng, họ phải hy sinh để phục vụ mọi người.

Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giê-su, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (17-3-2024)

MÙA CHAY 4

Thiên Chúa cứu chuộc con người

Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.

Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.  Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:

– Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.

 – Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định: ”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ” (Dt 9,22).

Phải, Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu.  Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta phải biết nhận ra tình thương cứu chuộc của Thiên Chúa và biết ơn Chúa Giêsu hầu khắc sâu lời Ngài đã phán:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (10-3-2024)

MÙA CHAY 3

ĐỀN THỜ TÂM HỒN

Ít có người nào thích ở dơ dáy bẩn thỉu, gây khó chịu cho người bên cạnh. Để thân xác được sạch sẽ, phải năng tắm rửa, nếu không sẽ bệnh hoạn, hôi hám không ai ở gần được. Trong đàng thiêng liêng cũng thế, Thiên Chúa không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Để có thể rước Thiên Chúa vào lòng và ở lại trong tâm hồn, chúng ta cần thường xuyên xét mình để nhận ra những tội lỗi, và mau chạy đến với BT Giải Tội để làm hòa và lãnh nhận ơn tha thứ.

Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những cách thức để nhận ra tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Sách Xuất Hành trình bày cách thức xét mình bằng Thập Giới: 3 giới răn đầu tiên đặc biệt chú trọng tới mối liên hệ với Thiên Chúa, 7 giới răn sau chú trọng tới mối liên hệ với tha nhân. Trong Bài-đọc II, Thánh Phaolô chọn Chúa Kitô chịu đóng đinh trên cả hai thần: thần khôn ngoan của người Hy-lạp, và thần thích biểu dương uy quyền của người Do-thái. Trong Phúc Âm, vì lòng nhiệt thành, khi thấy Nhà Cha của Ngài ra ô uế, Chúa Giêsu đã đánh đuổi những con buôn ra khỏi Đền Thờ. Ngài trách mắng họ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” 

Mùa Chay là dịp thuận tiện để chúng ta thanh tẩy những tính hư tật xấu trong tâm hồn, nhiều người gọi Mùa Chay là mùa xuân của tâm hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể nhận ra những tội lỗi để thanh tẩy? Để có thể thanh tẩy tâm hồn, điều trước tiên con người phải làm là quyết tâm chỉ thờ một Thiên Chúa mà thôi: Không thờ phượng hai thần, không làm tôi hai chủ. Bài Đọc I nói rõ: “Thiên Chúa là Thiên Chúa ghen tương.” Ngài không chấp nhận ở chung với bất cứ thần nào.

– Thánh Teresa Hài Đồng nói: “Thiên Chúa nhận tất cả những gì chúng ta cho Ngài, nhưng sẽ không cho tất cả những gì của Ngài cho chúng ta, cho tới khi Ngài nhìn thấy chúng ta đang cho Ngài tất cả những gì chúng ta có.”

– Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Đừng để ý tới bất cứ tạo vật nào nếu anh muốn giữ hình ảnh của Thiên Chúa rõ ràng và đơn nhất trong linh hồn anh, nhưng hãy trút đi tất cả những gì liên quan tới chúng và chạy xa khỏi chúng, và anh sẽ đi trong ánh sáng của Thiên Chúa.” Còn biết bao các thần tạo vật mà chúng ta đang làm nô lệ cho nó trong cuộc đời. Hãy mạnh dạn quăng đi tất cả để dành cho Thiên Chúa chỗ ưu việt nhất trong cuộc đời.

Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là tâm hồn và thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành ”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.

Lm Joseph Nguyễn Thái

 (3-3-2024)

        MÙA CHAY 2

THIÊN CHÚA HY SINH NGƯỜI CON MỘT

Tình yêu là quan niệm trừu tượng: con người không thể định nghĩa tình yêu, nhưng có thể cảm nghiệm thế nào là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa còn khó hiểu hơn nữa, vì chúng ta chưa từng thấy Ngài; nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mỗi khi ngước nhìn Cây Thập Giá.

        Các Bài Đọc hôm nay được sắp xếp rất tài tình để giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa qua hai biến cố xảy ra trên Núi Moriah và trên Đồi Golgotha. Trong Bài Đọc I, Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự kiện Thiên Chúa muốn thử thách đức tin của Abraham bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đã so sánh biến cố này với biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu trên Đồi Golgotha, trước khi rút ra kết luận: Nếu Thiên Chúa đã yêu con người đến độ đã hy sinh Người Con Một cho con người, còn gì có thể mà Thiên Chúa không làm cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mang ba môn đệ thân tín lên núi Thabor, cho các ông xem thấy vinh quang của Ngài, mục đích là để chuẩn bị cho các ông đối diện với Cuộc Thương Khó sắp tới:

(1) Ngài chính là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha nói những lời này; lần thứ nhất trong biến cố Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng.

 (2) Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà Luật và các tiên-tri loan báo: Sự có mặt của hai chứng nhân: ông Elijah đại diện cho các tiên tri, cùng ông Moses đại diện cho Luật, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, chứng tỏ điều này.

(3) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Đây là điểm cao của việc Biến Hình, mặc dù trình thuật không đề cập tới. Khi cho Con của Ngài đi qua Cuộc Thương Khó để cứu chuộc con người, Thiên Chúa muốn các ông hiểu tình yêu của Ngài dành cho con người.

(4) Chúa Giêsu tự nguyện đi qua Cuộc Thương Khó: Ngài tình nguyện chấp nhận chịu đau khổ, chứ không phải Ngài thua cuộc trước bạo lực của con người qua cuộc bàn luận với các chứng nhân Cựu Ước về những gì sắp xảy ra.

Thiên Chúa cho Người Con Một là cho chính Ngài. Ngài cũng mong chúng ta phải cho chính người con một của chúng ta, tức là cho chính chúng ta, như Abraham vậy. Tình yêu trọn vẹn là như thế. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài qua hai biến cố: chuẩn bị tâm hồn con người qua biến cố Abraham-Isaac, và cảm nghiệm rõ ràng qua Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại hy sinh như thế, cũng không hiểu được  tại sao Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào Ngài như  Abraham. Đức tin dạy chúng ta nếu chúng ta từ chối đau khổ và Thập Giá, chúng ta cũng từ chối con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh.

Lm Joseph Nguyễn Thái.  

 (25-2-2024)

        CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY      

CHÚA CHỊU CÁM DỖ

Nhìn lại lịch sử là điều cần thiết để hiểu biết và phê bình. Để so sánh cách chính xác, con người thường so sánh những gì xảy ra trước và sau khi một người nhận công việc hay chức vụ. Ví dụ, để phê bình tổng thống Biden, người ta sẽ dựa vào tình hình chính trị và kinh tế trước và sau khi ông nhậm chức tổng thống. Cả ba Bài Đọc hôm nay đều cho chúng ta thấy một sự tương phản trước và sau những biến cố lịch sử chính.

Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Sáng Thế cho chúng ta nhìn thấy những gì xảy ra sau trận Lụt Hồng Thủy; điều này giả sử phải có lý do và những gì xảy ra trước đó. Thiên Chúa đã nhìn thấy tội lỗi con người xúc phạm đến Ngài quá nhiều, nên Ngài muốn tái tạo một trời mới đất mới, trong đó có gia đình Noah. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Phêrô so sánh Lụt Hồng Thủy với cái chết của Đức Kitô. Nếu Lụt Hồng Thủy tàn sát tất cả vì tội lỗi con người, cái chết của Đức Kitô xóa đi tất cả tội lỗi và cứu sống con người. Điều này bảo đảm Lời hứa của Thiên Chúa: Lụt Hồng Thủy sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Trong Phúc Âm, sau khi Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu cám dỗ 40 đêm ngày, Ngài đã thắng vượt được tất cả và bắt đầu hành trình rao giảng Tin Mừng để đem ơn Cứu Độ đến cho con người. 

      Trình thuật cám dỗ của Chúa Giêsu gợi lại “biến cố cám dỗ” trong Vườn Địa Đàng: có Satan, các dã thú, và các thiên thần. Khi con người chưa rơi vào chước cám dỗ, họ có thể ở chung với dã thú mà không sợ hãi. Khi con người sa chước cám dỗ, các dã thú sợ hãi và có thể gây nguy hiểm cho con người. Điều này cũng đã được tiên tri Isaiah nói tới khi triều đại Thiên Chúa đến, chó sói sẽ ở chung với chiên… trẻ thơ có thể thò tay vào hang rắn lục mà không sợ nguy hiểm (Isa 11:6-9). Ngay cả trong khi bị cám dỗ, các thiên thần của Chúa vẫn hiện diện để nâng đỡ và gìn giữ con người khỏi sa chước cám dỗ.

       Marcô chỉ tường thuật tổng quát Chúa Giêsu chịu cám dỗ, nhưng không tường thuật chi tiết các cám dỗ như Matthew và Luke (Mt 4:1-11, Lk 4:1-13). Điều Marcô muốn nhấn mạnh là sự khác biệt giữa hai biến cố: Đức Kitô, Adam mới đã thắng vượt mọi cám dỗ, chứ không sa chước cám dỗ như Adam cũ! Qua Đức Kitô triều đại Thiên Chúa hứa được thực hiện và hòan tất tốt đẹp sẽ bắt đầu với hai điều kiện quan trọng là sám hối và tin vào Tin Mừng. Ăn năn sám hối: Giống như Gioan, Chúa Giêsu cũng đòi con người phải nhận ra tội lỗi và ăn năn sám hối; vì không thể nhận được sự tha thứ nếu không thú nhận tội lỗi của mình. Ơn thánh của Thiên Chúa đòi sự cộng tác của con người. Tin vào Tin Mừng là chính Đức Kitô: con người của Ngài, những lời Ngài dạy dỗ và các việc Ngài làm trong kế hoạch cứu độ và tình thương của Thiên Chúa. Ngài là Đấng gánh tội cho con người và giải thoát con người khỏi chết đời đời.

           Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta đọc lại lịch sử và tin vào tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Và cũng là thời gian dừng lại để nhận ra những cám dỗ đang rình rập và bủa vây xung quanh chúng ta, và nhờ việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa giúp ta vượt thắng cám dỗ.

Lm Joseph Nguyễn Thái     

 (18-2-2024)

CN 6 TN

Bệnh phong cùi và tội lỗi            

Bệnh phong cùi là chứng bệnh ghê tởm và nguy hiểm nhất trong các chứng bệnh của con người. Nhưng vẫn không thể so sánh với một chứng bệnh khác còn kinh khủng hơn, không những chỉ tàn phá thân xác, mà còn giết chết linh hồn con người: đó là tội lỗi. Trong Sách Các Vua, quyển II, có thuật lại bệnh tham tiền của Gehazi, đầy tớ của Tiên-tri Elisha: Khi thấy thầy mình từ chối không chịu nhận bất cứ lễ vật gì do Tướng Naaman, người Syria dâng tặng, ông vội bí mật lấy ngựa chạy theo và mạo danh nghĩa thầy mình để xin một số của cải. Hành động của ông không thóat khỏi mắt của thầy, và kết quả là ông không những mắc bệnh phong cùi của Naaman, mà còn truyền lại cho con cháu (2 Kgs 5:20-27).

           Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những đau khổ của các chứng bệnh nguy hiểm này, và sự đặc biệt quan tâm của Thiên Chúa cho các bệnh nhân. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Levi liệt kê những gì người phong cùi phải chịu. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô bắt chước thánh nhân như ngài đã bắt chước Đức Kitô: đó là phải cố gắng làm mọi sự cho mọi người, sao cho tất cả đạt tới ơn Cứu Độ. Trong Phúc Âm, người phong cùi đến quì trước Chúa Giêsu và xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu động lòng thương và đưa tay chạm đến anh, lập tức chứng phong cùi biến mất và anh được lành bệnh.  Đụng đến người cùi là trở thành ô uế giống như họ. Chúa Giêsu đã để mình trở thành ô uế giống như anh phong cùi. Theo Sách Levi, Chúa không được vào Đền Thờ hay các hội-đường để làm các việc phụng vụ!

Sách Tiên Tri Isaiah nói cho chúng ta biết trước về tình thương của Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa: “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. 4 Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. 5 Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Isa 53:3-5).

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

– Qua hình ảnh bệnh phong cùi, chúng ta hiểu được những nguy hiểm của tội lỗi. Nếu chúng ta sợ mắc bệnh phong cùi thế nào, chúng ta cũng phải sợ tội lỗi như thế.

        – Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Người Con Một của Ngài. Chính Người Con này đã mặc lấy tất cả bệnh họan tội lỗi của chúng ta để cứu chữa chúng ta.

       – Noi gương Đức Kitô, Đấng đã chết cho chúng ta, chúng ta cũng phải hy sinh chết cho nhau, để tất cả đều đạt tới ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho con người. 

     Lm Joseph Nguyễn Thái

(11-2-2024)

2024 MÙA XUÂN TÂM HỒN

         Năm Giáp Thìn khởi đầu Ba Ngày Tết rơi vào thứ Bẩy, Chúa Nhật, Thứ Hai (ngày 10,11,12 tháng 2) và sau đó mùng 5 Tết (ngày 14 tháng 2) là Thứ Tư Lễ Tro mở đầu cho Mùa Chay 2024. Vậy là mùa chay năm Giáp Thìn 2024 bắt đầu cùng với mùa xuân. Mùa chay của Giáo Hội Công Giáo và mùa xuân có những điểm chung với nhau. Ngày đầu năm là thời gian chuyển đổi sang một năm mới. Thứ Tư Lễ Tro cũng bắt đầu Mùa Chay kêu gọi sự biến đổi của tâm hồn. Nếu sự thay đổi của đất trời tạo nên mùa xuân, thì sự biến đổi của tâm hồn trong mùa chay cũng làm cho con người được tái sinh, tươi trẻ, mới mẻ, tràn đầy sức sống. Do đó mùa chay chính là mùa xuân của tâm hồn.

         Vào mùa xuân thiên nhiên biến đổi, hoa nở, cây cối đâm chồi nẩy lộc, thì bước vào mùa chay với những việc đạo đức như ăn chay, bố thí và cầu nguyện cũng giúp cho đời sống thiêng liêng phát sinh hoa trái nhân đức. Ăn chay giúp ta ý thức bổn phận đối với chính mình là phải kiềm hãm dục vọng, sửa sang tâm hồn để đón nhận niềm vui của ơn thánh. Bố thí có liên hệ đến tha nhân. Nếu mùa xuân người ta thăm nhau, chúc nhau điều tốt đẹp, tặng quà, lì xì cho nhau, thì mùa chay cũng thúc giục chúng ta hướng tới người khác để chia sẻ cơm áo, tình thương, và giúp đỡ lẫn nhau. Và sau cùng, mùa chay còn phải là mùa cầu nguyện. Bởi chỉ có cầu nguyện bằng Lời Chúa, Lectio Divina, chúng ta gặp được Chúa, thấy Chúa, chúng ta mới biết mình là ai, phải sống thế nào, thay đổi ra sao. Cầu nguyện bằng Lời Chúa, Lectio Divina, mà tại Trung Tâm Công Giáo có lớp Học Hỏi, Suy Niệm, Chia Sẻ Tin Mừng Chúa Nhật, vào mỗi tối Thứ Hai, từ 7-9pm, chính là phương cách để cho chính Chúa biến đổi tâm hồn ta. Kính mời toàn thể quý vị trong cộng đồng đến tham dự.

         Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối. Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ: Mùng một: cầu bình an cho năm mới. Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên. Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn. Chúa Nhật Mùng 2 Tết, mời gọi chúng ta cầu nguyện và kính nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ, còn sống cũng như đã qua đời, vì công ơn sinh thành dưỡng dục:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người

Thật là phù hợp với lời kêu gọi của các Giám Mục tại California, năm 2024-2025, cầu nguyện và học hỏi về Đời Sống Hôn Nhân và Gia Đình. Sự khủng hoảng trong đời sống hôn nhân gia đình hiện nay, cũng kéo theo sự khủng hoảng khan hiếm về ơn kêu gọi. Thật là ý Chúa nhiệm mầu đã làm cho cả đạo và đời theo truyền thống Việt Nam đi cùng 1 hướng với nhau. Xin kính chúc quý ông bà anh chị em và các gia đình: “Đón Xuân về con cháu sống bình an, Mừng Tết đến gia đình vui sum họp.”  Chúa mừng Năm Mới 2024!

         Lm Joseph Thái Nguyễn

(11-2-2024)

CN 5 TN

ĐÂU LÀ Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI

Câu hỏi quan trọng nhất và đã làm trăn trở bao nhiêu con người: “Đâu là mục đích hay ý nghĩa của cuộc đời?” Tùy vào câu trả lời cho câu hỏi này, con người có hai cái nhìn về cuộc đời: lạc quan hy vọng hay bi quan yếm thế. Tùy theo cách nhìn về cuộc đời, con người sẽ có thái độ sống thích ứng trong cuộc sống: hoặc làm việc không ngơi nghỉ để đạt đích, hoặc nằm dài than thân trách phận chờ thần chết đến giải thóat cuộc sống vô nghĩa.

        Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời: Trong Bài Đọc I, ông Job thấy cuộc đời vô nghĩa vì ông không biết mình sống để làm gì. Ông than thân trách phận vì không nhìn thấy ý nghĩa của cuộc đời. Sách Job đưa ra một số những đau khổ này là phải làm lụng vất cả mới có ăn, sự nhàm chán của ngày lên đêm xuống, sự đe dọa của vô vàn bệnh tật chực chờ xâm nhập cơ thể, nguy hiểm của tội lỗi và chết chóc do chiến tranh, tai ương, mất mùa đem lại. Trong Bài Đọc II, khi đã nhìn thấy sự quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng là để cho mọi người đạt tới Ơn Cứu Độ, Thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời, nhiệt thành rao giảng, và sẵn sàng trở nên mọi sự cho mọi người để chinh phục các linh hồn về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Marcô trình bày một ngày sống tiêu biểu của Đức Kitô bận rộn đến độ không có thời giờ ăn uống: rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, trục xuất quỉ thần, và cầu nguyện hiệp thông với Thiên Chúa trong nơi thanh vắng.   

Khó có thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người.  Ngài đã không trao cho chúng ta câu trả lời về vấn đề đau khổ cũng không giải thích tại sao con người phải chịu đau khổ.  Nhưng Ngài cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau khổ thành niềm vui bằng cách đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối. Chúa Giêsu khi hấp hối trên Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau khổ là một phần trong chương trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách chúng ta vác thập giá của mình. Bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách của chúng ta với những gian nan thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui hưởng chiến thắng của Ngài. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu mến Thiên Chúa và sẵn sàng chung phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi việc đều có ý nghĩa. Tin Mừng không bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đau nhưng đoan chắc với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù những nỗi khổ đau của chúng ta có lớn đến đâu đi chăng nữa. Ngài cũng đau khổ như chính chúng ta đang chịu đau khổ.

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

-Cuộc đời có ý nghĩa hay không tùy thuộc chúng ta có nhìn ra đích điểm của cuộc đời hay không?

         -Đích điểm của cuộc đời không do con người tự vạch ra, nhưng đã được vạch sẵn bởi Thiên Chúa cho con người.

        -Chúng ta có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng để giúp con người biết nhận biết đích điểm này, và giúp họ sống làm sao để đạt đích. 

Lm Joseph Nguyễn Thái

(4-2-2024)

CN 4 TN

SỨC MẠNH CỦA LỜI CHÚA

      Ngôn sứ hay tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, chứ không phải là những người nói trước về tương lai. Trong Cựu Ước, ngôn sứ chỉ là một thiểu số nhỏ, được Thiên Chúa tuyển chọn giữa dân để nói thay cho Ngài, nhất là trong thời miền Bắc và miền Nam bị rơi vào tay ngọai bang và bị lưu đày. Truyền thống Do-Thái tin rằng khi một người nhìn thấy Thiên Chúa, người đó sẽ phải chết. Vì thế ngôn sứ là người được chọn giữa con người, để trở thành trung gian giữa Thiên Chúa và con người.

        Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò của vị ngôn sứ. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Đệ Nhị Luật cho biết lịch sử tại sao có ngôn sứ, và vai trò quan trọng trong sứ vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô giải thích cho cộng đòan Corintô biết lý do cụ thể của những người không có gia đình, họ có nhiều thời giờ hơn để làm những chuyện của Thiên Chúa.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ Tối Cao, vì Ngài là chính Lời của Thiên Chúa. Ngài giảng dạy như một ngôn sứ có uy quyền chứ không giống các Kinh-sư; và Ngài có quyền trục xuất thần ô uế ra khỏi con người:  “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1, 22). Chúa có uy quyền bởi vì Ngài dùng quyền của Ngài để giảng dạy chứ không dùng thế giá, dùng quyền của người khác. Chúa hoàn toàn khác với bọn Biệt phái và Luật sĩ luôn chỉ gò bó luật lệ theo cái nhìn, theo sự suy nghĩ của họ. Lời của Chúa là một giáo lý mới. Chính sự mới mẻ của Lời Chúa làm cho nhiều người tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế và do đó, danh tiếng của Ngài vang dội khắp vùng Galilêa. Lời của Chúa còn có sức mạnh khiến cho các thần ô uế phải vâng theo (Mc1, 27).

      Và lời đó không chỉ có uy quyền ở thời Chúa Giêsu đang giảng dạy, nhưng còn trong hiện tại của Giáo Hội nữa. Càng đọc Tin Mừng, càng có đức tin, chúng ta càng thấy sức mạnh của Lời Chúa và uy quyền của Chúa Giêsu. Chính vì thế ai biết đón nhận, biết tin theo, biết thực thi Lời của Chúa thì chắc chắn sẽ thoát được các bất hạnh trong đời sống, nhất là đời sống tinh thần và thiêng liêng như lời Thánh Vịnh đã khuyên dạy: “Lời Chúa là đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường cho con đi” (Tv 118, 105). Chúng ta nên hiểu rằng ma quỉ không chỉ xuất hiện như những hình chúng ta xem: đen đủi, có đuôi, xấu xí. Nếu thấy rõ chúng như thế, con người sẽ dễ tránh xa và không bị sa ngã. Tuy nhiên, ma quỉ xuất hiện qua nhiều dáng dấp xinh đẹp, hấp dẫn để đánh lừa chúng ta, nếu không khôn ngoan, tỉnh thức.

     Bởi thế, chúng ta cần siêng năng học hỏi Lời Chúa, suy niệm và sống lời Chúa, để luôn khám phá ra sự mới mẻ của lời Chúa, đồng thời nhận ra uy quyền, sức mạnh, khả năng biến đổi của Lời Chúa. G. Courtois đã viết: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì ánh sáng của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.

    Lm Joseph Nguyễn Thái

(28-1-2024)

CHÚA NHẬT 3 TN

          THỜI GIAN            

Thời gian có sức biến đổi con người trở nên tốt hay xấu hơn, trẻ hơn hay già hơn, khỏe hơn hay yếu hơn... Nếu biết dùng thời gian mà nắm lấy cơ hội, con người sẽ đạt được kết quả mong muốn; nếu không biết nắm lấy thời gian, cơ hội qua đi, con người phải gánh chịu mọi hậu quả xấu, ngay cả cái chết.

            Các Bài Đọc hôm nay đều chỉ cho thấy sự thúc đẩy nghiêm trọng của thời gian. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa truyền cho Tiên-tri Jonah phải đi rao giảng cho dân Thành Nineveh biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên họ. Ông mua vé tàu qua Tarshish, trốn khỏi sứ vụ. Nhưng ông bị ném xuống biển, thóat chết. Thiên Chúa truyền lần thứ hai, lần này ông vâng lệnh đi rao giảng. Dân Thành Nineveh tin vào lời rao giảng, tuyên bố thời gian chay tịnh, vua cũng như dân, con người và súc vật, nên được Chúa tha phạt.

Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu Corintô: Vì thời gian chẳng còn bao lâu nữa là đến Ngày Chúa Quang Lâm, mọi người hãy chú trọng đến những giá trị vĩnh cửu đời sau, đừng quá chú trọng đến những giá trị đời này; hãy dùng chúng như không hưởng thụ, vì bộ mặt của thế gian đang qua đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan truyền sứ điệp: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”  Tin Mừng này gói ghém trong 3 điều chính sau đây:

            (1) Thời kỳ đã mãn: Lịch sử Cựu Ước là một chuỗi những thời gian để chuẩn bị cho Đấng Messiah ra đời. Các Tiên-tri đã loan báo những điều này và chuẩn bị dân chúng để đón mừng Ngài. Qua lời rao giảng của Chúa Giêsu hôm nay, Ngài muốn nói cho mọi người biết: thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã hết, và nay Ngài chính là Đấng Messiah mà muôn dân đang mong đợi.

            (2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Truyền thống Do-Thái tin: Khi Đấng Messiah tới, Ngài sẽ thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ là Vua cai trị mọi người và dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn họ hiểu: khi Ngài đến, triều đại Thiên Chúa bắt đầu nơi chính Ngài.

            (3) Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Phần con người, để được hưởng những gì Thiên Chúa hứa, họ phải ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng. Và Chúa Giêsu đã gọi 4 môn đệ đầu tiên để huấn luyện họ đi rao giảng: Simon, Anre, Gioan và Giacobe. Phản ứng mau lẹ và dứt khóat của các ông chứng tỏ các ông đã nhận ra tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng và thời gian cấp bách đòi hỏi. 

             Áp dụng Lời Chúa hôm nay vào cuộc sống của chúng ta:

1-Đời người chúng ta chỉ giới hạn trong một thời gian ngắn. Hãy tìm ra mục đích cuộc đời và cố gắng sống làm sao để đạt được mục đích đó.

2-Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất là vì yêu thương con người, và Ngài đặt muôn sự dưới chân con người. Tôn thờ vật chất như một vị thần là đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa.

3-Chinh phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa thì quí trọng hơn là tìm kiếm của cải vật chất. Hãy mau mắn cộng tác trong cánh đồng truyền giáo. 

Lm Joseph Thái Nguyễn.

(21-1-2024)

CHÚA NHẬT II TN

Nhận ra thánh ý Thiên Chúa

         Thiên Chúa có thể mặc khải trực tiếp cho một người hay qua trung gian người khác. Để nhận ra ý định của Thiên Chúa, nhiều khi con người cần cả ba: Thiên Chúa, người trung gian, và chính đương sự. Các Bài Đọc hôm nay cho thấy những trường hợp con người có thể nhận ra ý định của Thiên Chúa.

Trong Bài đọc I, Thiên Chúa gọi con trẻ Samuel 3 lần giữa đêm tối trong Đền Thờ, và Samuel đã nhận ra tiếng của Thiên Chúa qua sự giúp đỡ của Thầy Cả Eli. Trong Bài Đọc II, qua sự dạy dỗ của Thánh Phaolô, chúng ta nhận ra phẩm giá của thân xác và phải biết quí trọng nó, vì thân xác chúng ta là một phần chi thể của Đức Kitô, và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả chỉ đường cho hai môn đệ thân tín của mình theo Chúa Giêsu. Sau đó, Anrê, sau khi đã gặp được Chúa, dẫn anh mình là Phêrô đến gặp Chúa Giêsu.

Phản ứng của hai môn đệ: Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Hai môn đệ của Gioan có lẽ ngượng ngùng không biết mở lời làm sao, nên cứ tiếp tục theo đàng sau Chúa Giêsu. Để dễ dàng cho họ phản ứng, Chúa Giêsu mở lời trước: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Chúng ta có thể nhận ra cả 3 yếu tố quan trọng đều có ở đây: (1) Gioan, người trung gian chỉ đường cho hai ông đến với Chúa; (2) chính hai ông phải vượt qua xấu hổ, ngượng ngùng để đi theo Ngài; và (3), Chúa Giêsu mở lời trước để đánh tan ngượng ngùng lúc ban đầu, và mời gọi hai ông đến và xem.

Câu hỏi Chúa đặt cho hai ông: “Các anh tìm gì thế?” là câu hỏi nền tảng nhất trong đời sống con người. Câu trả lời cho câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận ra tại sao chúng ta đi tìm hay không đi tìm Thiên Chúa. Nếu câu trả lời là đi tìm của cải, danh vọng, chức quyền; chúng ta đừng đến với Chúa, vì Ngài sẽ không thỏa mãn khát vọng của ta. Nếu câu trả lời như của người thanh niên trẻ: “Tôi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?” Hãy đến với Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời.

Bài Tin mừng hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy hăng say, tình nguyện giới thiệu Chúa cho người khác nữa. Có nhiều cách giới thiệu Chúa cho người khác, tùy theo sáng kiến mà Chúa soi sáng cho mỗi người. Nhưng giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống gương mẫu, đời sống tốt đẹp của chúng ta. Thực tế đã chứng minh : nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy đời sống gương mẫu, bác ái của các tín hữu. Chính nếp sống đạo đức, thánh thiện, ngay thẳng, chân thành của chúng ta là một tấm gương trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn nhiều bài giảng hùng hồn. Người ta thường nói :”Trăm nghe không bằng một thấy”, chính cái hình ảnh tốt đẹp in sâu vào tâm hồn người ta, khiến họ phải suy nghĩ và có một sức lôi kéo mãnh liệt khiến họ không thể chống lại được. Vì thế, người ta cũng thường nói: “Lời nói như gió lung lay, Gương bày như tay lôi kéo”.

Lm Joseph Thái Nguyễn

(14-1-2024)

LỄ HIỂN LINH

Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.

Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế:

(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng. Các Thượng-tế và các Kinh-sư là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.

(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Ông đã không tiếp nhận ánh sáng, lại còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và xấu xa trong tâm hồn của họ.

(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Ngài cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu tinh. Tuy thế, trên bước đường đi tìm kiếm, các đạo sĩ cũng gặp khó khăn, thử thách, nhất là khi ngôi sao dẫn đường vụt tắt ở Giêrusalem. Nhưng Chúa lại thương cho ngôi sao xuất hiện để hướng dẫn các ông đi triều bái Chúa Hài nhi.

Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa nếu ta quyết tâm tìm kiếm. Có thể là: một câu Kinh Thánh đánh động lòng ta. Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm. Một lời khuyên nhắc nhở chân tình. Một gương sáng làm ta xúc động. Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng trên bầu trời. Eliot đã viết:  "Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng thì hãy là ánh lửa non cao. Nếu không thể là ánh lửa non cao. Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình"

Lm Joseph Thái Nguyễn


(7-1-2024)

THÁNH GIA:

Bí quyết để có một gia đình Thánh

Mọi người trong chúng ta đều đã nhìn thấy và cảm nghiệm được sự khủng hỏang của gia đình hôm nay. Chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu những vấn nạn liên quan đến gia đình như: săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, cho vào viện dưỡng lão, giết người già bằng cái chết êm dịu; ly dị, ly thân, và độc thân; hạn chế sinh sản và phá thai; con cái bỏ học, bỏ nhà, và bỏ đạo…

Gia đình Thánh cũng có những vấn đề như gia đình chúng ta: Thánh Giuse cũng toan bỏ Đức Mẹ cách kín đáo để bảo tòan sự công chính; Đức Mẹ cũng có những quyết định riêng cho đời mình bằng cuộc sống độc thân để phục vụ Chúa trong Đền Thờ; Chúa Giêsu cũng để cho cha mẹ vất vả mệt nhọc đi tìm kiếm mình, khi cha mẹ tìm thấy trong Đền Thờ lại còn hỏi: “Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?” Nhưng làm sao Gia Đình Thánh có thể vượt qua những trở ngại trong đời sống gia đình? Câu trả lời đơn giản là họ biết lắng nghe và làm theo ý Thiên Chúa.

Các vấn nạn xảy ra khi con người quá ích kỷ chỉ biết lo cho mình, và đánh mất tính tương giao với người khác. Họ không biết định giá, cám ơn, và trả ơn những gì Thiên Chúa và những người khác đã làm cho họ. Họ không biết kiên nhẫn và tha thứ cho người khác như Thiên Chúa và những người khác vẫn tha thứ cho họ. Họ quên đi rằng nếu Thiên Chúa và những người khác cũng ích kỷ như thế, họ sẽ không có cơ hội để có mặt trên trái đất này. Hậu quả phải lãnh nhận: Vì gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, nên khủng hỏang gia đình đứa tới khủng hỏang trong xã hội và Giáo Hội, ví dụ cụ thể: việc hạn chế sinh sản dẫn tới việc mất quân bằng dân số trong các quốc gia cũng là lý do chính của việc khan hiếm linh mục và tu sĩ; nếu chỉ có một hay hai con, rất khó cho cha mẹ dâng con để phục vụ Chúa!

Các Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những chất liệu suy tư và nhìn lại hòan cảnh gia đình của mỗi người chúng ta. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca khuyên con cái phải săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, dẫu các ngài đã lú lẫn và không tự săn sóc mình được nữa. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô liệt kê những đức tính và các cách cư xử cần có để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Trong Phúc Âm, Thánh Luca tường thuật Ngày Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ của Thánh Gia. Một gia đình hạnh phúc phải biết chấp nhận và kính sợ Thiên Chúa, và giữ cẩn thận Lề Luật của Ngài.

Gia Đình Thánh cảm tạ Thiên Chúa: Thánh Giuse và Mẹ Maria cám ơn Thiên Chúa về món quà gia đình, cho hai người thành vợ chồng; và món quà sự sống là Chúa Giêsu. Họ cùng nhau lên Đền Thờ để dâng Con cho Thiên Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa.” Tuy nghèo, nhưng họ cũng cố gắng chuẩn bị một đôi chim gáy và một cặp bồ câu non để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền. Sau khi hòan tất, họ trở về Nazareth, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và ân nghĩa cùng Thiên Chúa. Nguyện xin gia đình Thánh Gia phù hộ cho các gia đình đang gặp khủng hoảng hôm nay.

Lm Joseph Nguyễn Thái

(31-12-2023)

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG

Ở VỚI CON NGƯỜI

Sau khi đã định vị, sửa dọn, và vui mừng đón chờ Đấng Cứu Thế trong ba Chúa Nhật vừa qua, phụng vụ Lời Chúa tuần này đưa chúng ta vào Mầu Nhiệm Cứu Độ ngòai sức tưởng tượng và vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Vì một Thiên Chúa, tuy uy quyền vô biên và sức mạnh khôn tả, đã chọn để xuống ở với con người; không phải trong chiếc lều vải như thời dân Do-Thái lang thang trong sa mạc, nhưng trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria như một Hài Nhi, để được sinh ra và ở với con người.

      Trong Bài đọc I, vì lòng nhiệt thành và biết ơn, Vua David muốn xây “Nhà” cho Thiên Chúa; nhưng Vua không hiểu rằng cả ngôi nhà vũ trụ cũng không chứa nổi Thiên Chúa. Ngược lại, chính Thiên Chúa sẽ xây “Nhà” cho David: cho chính Vua, cho giòng dõi của Vua, cho dân tộc Do-Thái, và cho tất cả mọi dân tộc. Trong Bài đọc II, Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa tuy được giấu kín từ ngàn xưa, nhưng được mặc khải tiệm tiến qua các tiên tri; và được mặc khải rõ ràng qua Đức Kitô cho tất cả các dân tộc, không chỉ giới hạn trong dân tộc Do-Thái mà thôi. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca tường thuật chóp đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ được thực hiện qua biến cố Truyền Tin: Đấng Cứu Thế, Người Con Thiên Chúa, muốn nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, để “cắm lều” ở giữa con người. 

Tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra do quyền năng của Chúa Thánh Thần và sự hợp tác “xin vâng” của Đức Maria để bắt đầu cho cuộc đời của Đấng Cứu Thế trên dương gian qua biến cố Truyền Tin. Không ai có thể ngờ một Thiên Chúa, Đấng dựng nên và có quyền trên muôn lòai, lại đến với một tạo vật của mình; để xin cho Người Con được vào cung lòng của Trinh Nữ và sinh ra làm người. Sau khi nghe sứ thần cắt nghĩa cách của Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Đức Trinh Nữ Maria đã thưa: “Xin Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY:

– Vì yêu thương Thiên Chúa muốn ở với ta để dạy dỗ, an ủi, hướng dẫn, và ban muôn ơn lành. Để luôn có Ngài trong cuộc sống, chúng ta cần chuẩn bị một chỗ ở xứng đáng cho Thiên Chúa, không phải chỉ trong những Đền Thờ vững chắc và to lớn, nhưng trong chính con người yếu đuối của chúng ta.

 – Mầu Nhiệm Cứu Độ được Thiên Chúa chuẩn bị và bắt đầu từ dân tộc Do-Thái; nhưng Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong dân tộc này. Thiên Chúa muốn chúng ta rao giảng Tin Mừng và mang Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa tới cho muôn người.

– Chúng ta có thể có ý định và kế họach cho cuộc sống; nhưng một khi Thiên Chúa muốn chúng ta thay đổi kế họach và làm theo thánh ý Ngài, chúng ta phải biết khiêm nhường lắng nghe và thi hành ý định của Thiên Chúa như Vua David và Đức Trinh Nữ Maria. 

Lm Joseph Nguyễn Thái

(24-12-2023)

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG

HÃY VUI MỪNG LÊN

Người ta thường nói: Đời là bể khổ hoặc đời là thung lũng nước mắt. Đối với chúng ta đời không hẳn là như thế, mà ta có thể nói: cuộc đời có rất nhiều đau khổ, đầy gian nan thử thách, và chúng ta có thể biến tất cả thành niềm vui nếu chúng ta biết đặt niềm tin vào Chúa, Đấng là nguồn vui bất tận. Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi ta sống trong niềm vui chờ đợi Giáng sinh. Chúa sẽ đến cứu chúng ta, ngày giờ Chúa đến không được xác định. Trong thời gian chờ đợi có lẽ chúng ta lo âu, buồn phiền và nghĩ rằng hy vọng của mình có thể là ảo tưởng, niềm tin của mình xem ra hão huyền.

Các Bài Đọc của Chúa Nhật III Mùa Vọng xoay quanh chủ đề “Hãy vui mừng lên,” vì Đấng Cứu Thế sắp tới; Ngài mang theo tất cả những gì con người đang thiếu thốn và mong đợi. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah kêu gọi dân Do-Thái hãy vui mừng lên vì Năm Tòan Xá sắp tới, niềm vui vì sắp hết Thời Lưu Đày (50 năm, từ 587 BC đến 538 BC). Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô không những kêu gọi các tín hữu vui mừng lên, mà còn phải vui mừng luôn mãi. Lý do là vì Ngày Chúa Quang Lâm sắp tới; và mọi người sẽ được nhìn thấy ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. 

Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả báo cho dân biết Đấng Cứu Thế đã xuống và ở giữa con người; nếu họ đi tìm thì họ sẽ gặp Ngài. Và để trả lời cho người Do thái biết ông là ai, Gioan không trả lời trực tiếp: Tôi là Tiền sứ của Chúa Cứu thế vì ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia: “Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn đường cho Chúa.” Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại.  Người “tiền hô” còn điều nữa phải làm là dạy cho dân những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới.

Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cũng thể hiện niềm vui chờ đón Chúa đến bằng việc năng đến nhà thờ dự lễ và tham dự các sinh hoạt đạo đức tĩnh tâm để hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta cũng phải năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… vì “Tất cả đều là hồng ân”. Chúng ta hãy luôn tin rằng: “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng” và “qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Do đó chúng ta đừng bao giờ thất vọng cho dù có gặp bất cứ hoàn cảnh nào, vì luôn tin có Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa, con cái Chúa thì phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui trong thất bại vì tất cả nằm trong thánh ý Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã dạy: “Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi thanh xuân tôi được vui tươi”.

Lm Joseph Nguyễn Thái.

(17-12-2023)

MÙA VỌNG II

CHUẨN BỊ TÂM HỒN

Thông điệp chính của Chủ Nhật I Mùa Vọng là nhìn lại cuộc đời mỗi người để nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời, và thông điệp chính của Chủ Nhật tuần II Mùa Vọng là phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa, để dọn đường cho Chúa vào nhà của mỗi người.

Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah đòi dân Do-Thái điều mà tác giả một bài hát Mùa Vọng của Việt Nam sắp xếp lại cho dễ nhớ: “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống.” Đây là lời mời gọi hãy sám hối. Trong Bài đọc II, Thánh Phêrô đòi các tín hữu: “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.” Đây là lời mời gọi hãy sống đơn giản, thánh thiện. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả lặp lại lời Tiên Tri Isaiah: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” Ông kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Bắt đầu từ hôm nay, Tin Mừng của Marco sẽ được dùng trong suốt Năm Phụng Vụ B. Thánh Marco mở đầu Tin Mừng: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.” Tin Mừng là chính Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Đây là lời mời gọi sống khiêm tốn để Tin Mừng của Chúa được rao giảng và vinh danh.

Thánh Gioan Tẩy Giả là sứ giả đi trước để dọn đường cho Đức Kitô. Chúng ta biết sau Thời Lưu Đày (538 BC) cho đến thời Đấng Cứu Thế, cả hơn 500 năm, không có một tiên tri nào trong Israel cho đến thời của Gioan Tẩy Giả, ông được coi là tiên tri sau cùng của Cựu Ước, và là tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân Ước. Cuộc sống của Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta suy nghĩ về lối sống của người môn đệ Chúa:

a) Sống sám hối: là cách để sửa đường cho thẳng đón Chúa đến, như Gioan Tẩy Giả đã thực hiện lời ngôn sứ I-sai-a : “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay….. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa.

b) Sống đơn giản: để có giờ lo công việc nhà Chúa và phục vụ anh em: Nếp sống đơn giản làm cho chúng ta tự do và thoải mái, vì nếu sống cầu kỳ phức tạp sẽ làm chúng ta bận bịu và mất giờ về quần áo mặc hay về nơi ăn chốn ở, những tiện nghi vật dụng…

c) Sống khiêm tốn: để Đức Ki-tô được lớn lên trong anh em:  Cuộc sống của người tín hữu chúng ta dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều có chung mục đích là “làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” như lời Chúa Giê-su dạy : “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Muốn thực hiện được điều này đòi chúng ta phải sống theo gương Gio-an là khiêm tốn qui mọi vinh quang về cho Đức Giê-su như Gioan đã trả lời cho các môn đệ của ông: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).

Lm Joseph Nguyễn Thái

(10-12-2023)

MÙA VỌNG I